Nếu ai đó hỏi tôi, sau 30 năm, bạn nhớ gì ở Budapest nhất?
Xúp cá, Quảng trường Anh hùng,
rượu vang vùng Tokaj, hay đồi Gellért nơi tọa lạc
Tượng thần Tự do? Câu trả lời sẽ là tàu điện.
Tất cả những ai đã bay từ Nội Bài sang Đông Âu vào tháng 8 của 30 năm trước, chắc phải quen với tàu điện Hà Nội. Học sinh của Trưng Vương và Chu Văn An, trong những năm 70, 80 của thế kỷ trước, quá nửa là những tay nhảy tàu chuyên nghiệp.
Chuyến bay năm 1987 đó, với gần hết chúng tôi, là chuyến bay đầu tiên ra nước ngoài, nếu không nói là chuyến bay đầu tiên trong đời.
Budapest, cái gì cũng khác, cũng mới, từ đường phố, cửa hàng, thức ăn, cho đến phim ảnh và màu mắt của các cô gái. Quê hương nhất, chính là anh tàu điện. Tàu điện ở Budapest cũng màu vàng, và cũng leng keng, y hệt như tàu điện Bờ Hồ, có điều nó có cửa nghiêm chỉnh và phải mua vé. Ba mươi năm trước dáng nó bè bè béo béo chứ không thanh thoát chân dài như bây giờ.
Tàu điện quen thuộc nhất với sinh viên Việt Nam phải là tàu số 4 và 6, vì hai tàu bắt đầu ở gần ký túc xá của Đại học Bách Khoa, nơi quá nửa học sinh Việt Nam theo học. Tàu chạy dọc đại lộ một thời mang tên Lenin, mà tên người luôn xuất hiện một cách bất ngờ nhất trong các tạp chí sinh viên lưu hành trong các ký túc xá, cho đến Quảng trường Mátxcơva. Quảng trường Mátxcơva nay đã trở lại cái tên cũ Széll Kálmán (vị Thủ tướng Hungary cuối thế kỷ 19), còn đại lộ Lenin, cũng không khác với số phận của thành phố cùng tên bên Nga, đã chuyển thành con đường mang tên Teréz và Erzsébet, hai bà hoàng của Đế quốc Áo - Hung ngày trước.
Quảng trường Mátxcơva rộng, nhưng không đẹp. Từ đây có thể đi bộ lên thành Vár. Thật ra trong tiếng Hung, Vár đã có nghĩa là thành, người Việt quen gọi tên kép là “
thành Vár”. Đây là địa điểm du lịch số một của Budapest, có nhà thờ vua Matyás và pháo đài Những người đánh cá (thật ra là chỗ thu thuế cá ngày xưa), hai điểm mà hầu như du khách nào cũng ghé qua. Cái hay là ở trong thành không phải chỗ nào cũng làm du lịch cả, mà còn nhiều nhà dân sinh sống trong các dẫy phố nho nhỏ, có cột đèn bằng sắt xen lẫn cây cổ thụ, lòng đường lát đá đen, và dọc phố lác đác vài ngôi mộ chí.
Thành Vár ở địa thế ở cao, có thể nhìn xuống toàn cảnh thành phố, sông Danube xanh và những cây cầu tuyệt vời của nó. Cây cầu đẹp nhất có lẽ là Cầu Xích (Lánchíd - Chain Bridge), một trong những cầu treo bằng sắt đầu tiên trên thế giới. Được xây từ nửa đầu thế kỷ 19, Cầu Xích là một thành tựu kỹ thuật đáng kể của thời đó. Ở hai đầu cầu, nhà kiến trúc tài ba đã cho đắp sừng sững một đôi sư tử nhe nanh, như có ý nhắc nhở rằng sợ vợ không chỉ là đặc tính của đàn ông Châu Á. Dẫu vậy,
người Hung thật xứng đáng là một dân tộc thông minh, cái gì cũng hơn người thường một chút, vì nếu nhìn gần, thì các bà sư tử này hình như không có lưỡi.
Budapest có những dãy phố cổ dọc theo bờ sông, phía Buda, tối mở cửa sổ có thể nhìn sang thành Vár và
Nhà Quốc hội bên kia sông rực ánh đèn. Các khu cổ này một nhà to có nhiều căn hộ, có lẽ là chỗ ở cho các thị dân giàu có ngày xưa, cửa sổ cao và thoáng, mỗi nhà có một cái cổng đá xây rất phong cách, nhô ra đường để khi trời mưa khách vãng lai có thể vào trú được. Chiếc cổng đã che bao thế hệ thanh niên đi ngang qua nó. Ngày hôm nay là những cô cậu sinh viên của thế hệ iPad, 30 năm trước là thế hệ của tôi và bạn, 30 năm trước nữa là những sinh viên của năm 1956 đầy biến động, mà trong lòng họ không biết đất nước và bản thân sẽ đi về đâu…
Bên ngoài cửa sổ phòng làm việc trời tối dần. Các cao ốc bắt đầu thắp sáng, thành phố rực ánh đèn. Đèn của Hà Nội, của Budapest, Genève, hay của New York, Los Angeles, Singapore? Ba mươi năm là một nửa đời người. Ba mươi năm qua, tôi đã đi rất nhiều nơi trên quả đất này, và các bạn cũng vậy. Nhưng sâu thẳm trong tâm hồn, có lẽ bạn vẫn muốn về qua nơi ấy, nơi của những tháng ngày sôi nổi, của tuổi trẻ và ước mơ, với hơi ấm của bàn tay và nhịp đâp dồn dập trong lồng ngực.
Nơi bạn đã tìm ra con đường của riêng mình.