Truyện ngắn của Doris Lessing (Nobel Văn chương 2007): CHUYỆN KỂ VỀ HAI CON CHÓ (3)

Chủ nhật - 13/04/2008 17:45

(NCTG) Tôi đã quá quen với những cuộc cãi vã gia đình và biết rằng chẳng đáng tốn thời gian cố hiểu tại sao, cớ gì mọi người hiện giờ lại tranh cãi và họ còn sắp nói những gì quá đáng với nhau vì con chó nhỏ của tôi. Tôi chỉ biết rằng, cuối cùng thì logic của cuộc sống vẫn sẽ thắng cuộc, cún con sẽ là của tôi.

Tôi bỏ lại đó khúc nhạc tứ tấu đang muốn làm sáng tỏ mọi bất đồng ý kiến chỉ vì cún con, chạy ra ngoài ngắm cu cậu. Cậu chàng ngồi trong quầng bóng của chiếc thùng thơm mùi gỗ thông, bộ lông sặc sỡ bóng láng lên, chó mẹ đang liếm chó con, những mảng lông ướt vẫn còn chưa khô hết. Chiếc lưỡi hồng của cậu chàng thò ra trông đến ngộ từ dưới hàm răng trắng, tuồng như cái lưỡi ấy lười nhác hoặc chẳng khoái giấu mình vào cái mõm hồng hồng. Hai con mắt như hai cái cúc áo bé xinh màu nâu tuyệt đẹp…, tóm lại, trước mắt tôi là một cún con tạp chủng bình thường nhất!

Đợi đôi chút rồi tôi lại ngó vào phòng khách để coi tương quan lực lượng chênh lệch đến đâu rồi. Mẹ rõ ràng là đang chiếm lại ưu thế. Bố nói rằng, ừ, có nhẽ cũng chẳng nên lấy con chó: “Nói gì thì nói, cái gien xấu chẳng chóng thì chầy cũng lộ ra, nòi nào giống nấy mà”.

“Cái gien xấu” ấy nó được cha nó truyền cho, mà câu chuyện về con chó cha lại làm mê mệt trí tưởng tượng tuổi mười bốn của tôi. Vùng này là vùng hoang sơ, dân quanh vùng chẳng có mấy ai, còn trong những cánh rừng thì đầy thú hoang: có cả sư tử và báo, thế nên đội cảnh sát khu vực gồm bốn người làm nhiệm vụ ở đây vất vả hơn nhiều so với vùng ven thành phố.

Bởi vậy, họ mua đến nửa tá các con chó to với mục đích, thứ nhất là khiến cho bọn cướp khiếp đảm (nếu có bọn người thế thật lang bang xứ này), thứ hai, để có một vòng quây những kẻ dũng mãnh bao quanh, những kẻ có thể quản được lũ thú rừng khát máu bằng cơn giận dữ của mình – những chú chó được huấn luyện có thể cắn cổ con vật theo lệnh chủ.  Một con trong số đó, to lớn và gần như đen tuyền, giống chó săn Rhodesia mà như người ta nói, đã bị “lại giống”. Nó giằng khỏi xích, chạy vào rừng và sống ở đó, hàng ngày đi săn hươu, sơn dương, thỏ, chim và thậm chí còn tha gà của mấy trang trại ngoại vi. Và chính con chó to lớn ấy, kiêu hãnh và cô độc, con thú đã chối bỏ tình bạn và tình êm ấm con người, thi thoảng xuất hiện trước mặt những điền chủ trong đêm sáng trăng hoặc dưới bóng mờ xam xám của buổi sớm mai, chính nó đã rủ Stella, mẹ của chú chó nhỏ của tôi một lần nọ đi tuốt vào rừng.

Cô nàng ra đi với chàng buổi sớm ngay trước mắt ông bà Barnes, họ đã gọi nó lại. Nhưng Stella làm như không nghe thấy tiếng. Một tuần sau, nó trở về. Tinh sương hôm ấy, hai vợ chồng Barnes bị đánh thức bởi tiếng rít nhè nhẹ, ai oán: “Tôi đã về đây, cho tôi vào”, và ngó qua cửa sổ, họ thấy cô chó Stella từng trốn chạy của mình trong ánh sáng trăng đã mờ nhạt: rướn thẳng người lên, Stella nhìn về phía một con chó khổng lồ tuyệt đẹp đang đứng bên bìa rừng, và trước khi khuất hẳn sau những thân cây, chàng vẫy đuôi như từ biệt nàng.

Ông Barnes gửi theo bước con vật một vài viên đạn muộn mằn. Hai vợ chồng quở mắng Stella rất lâu, còn Stella thì sau một thời gian mang bầu đã đưa về bảy chú cún con lẫn lộn màu lông: đen- hạt dẻ - vàng óng ánh. Chính Stella cũng là chó lai, cho dù chủ nó đương nhiên vẫn coi nó là giống thuần chủng – chứ gì nữa, chó của nhà họ cơ mà.  Vào cái đêm những chú cún con ra đời, “người gốc Norfolk” và bà vợ nghe thấy một tiếng tru rầu rĩ tựa như tiếng khóc, đến gần cửa sổ, họ thấy bên chiếc cũi, con chó săn cảnh sát đi hoang đang gắng sức thò đầu vào cũi.
 
Cánh rừng rực lên trong ráng hồng chói lòa của rạng đông, và tuồng như có một vầng hào quang bao bọc chung quanh con thú. Stella rít lên khe khẽ, dần dần tiếng rít chuyển thành tiếng gầm gừ, - như mừng vui trước sự xuất hiện của con thú uy quyền to lớn đang dùng mõm ngửi ngửi lũ trẻ của cô nàng, như xua đuổi nó, như hãi sợ nó… Nhà Barnes kêu lên, kẻ bị chối bỏ ấy quay về phía cửa sổ, nơi hai vợ chồng đang đứng – người đàn ông mặc áo pigiama kẻ sọc, người đàn bà mặc áo lụa thêu, - rồi ngẩng mõm lên và rống lên. Như họ kể lại, nghe tiếng tru hoang dại tuyệt vọng ấy, hai vợ chồng rởn hết gai ốc.

Mãi một vài năm sau tôi mới thực sự hiểu họ khi Bill – chú chó nhỏ của tôi ấy – cũng trở về hoang dại và tôi được một lần nghe thấy nó tru lên trên một gò mối. Tiếng gọi cuồng dại của nó bay vào thẳm xa một thế giới trống trải, cái thế giới chỉ nghe theo một mình nó mà thôi…

Cha của những đứa con của Stella không bao giờ còn xuất hiện bên cạnh cô nàng nữa. Một tháng sau đó, một người láng giềng của nhà Barnes, sống cách họ năm mươi dặm, đã bắn nó khi con thú từ dãy chuồng gà chui ra, ngậm giữa hai hàm răng một con gà trắng tuyệt đẹp.

Độ ấy Stella chỉ còn giữ lại được có một cún con, những con khác bị nhà Barnes nhận chìm ngoài sông hết cả: dòng giống xấu, họ bảo vậy, ai mà tự hào được về cái lũ ấy, và chỉ vì thương hại mà họ để lại cho Stella một đứa nhóc.

Khi hai người kể câu chuyện mang tính giáo huấn này, tôi nghe không bỏ sót một từ, cố giữ một vẻ bình thản rắn rỏi của một người biết rất rõ rằng cuối cùng thì cũng sẽ đạt được điều mình muốn. Quyền thuộc về tôi à? Đúng, về tôi. Bố mẹ có hứa kiếm cho tôi một con chó không? Có hứa. Vậy thì, chẳng nhẽ có ai khác mà không phải là tôi được quyền lựa chọn chó cho tôi? Không… Nhưng… Không có “nhưng” gì sất, tôi đã chọn xong. Tôi đã chọn chính cái con chó mà tôi thích, tôi không cần một con nào khác nữa. Phản đối và tranh luận đều vô ích, tôi đã quyết rồi.

Chúng tôi lưu lại nhà ông bà Barnes ba ngày đêm. Ba ngày ấy kéo dài dằng dặc đầy mệt mỏi, nóng nực và trống rỗng. Lũ chó ngủ suốt trong cũi. Những buổi tối, người lớn lại tập trung ở phòng khách bé tẹo, căn phòng bị nung nóng bởi ngọn đèn dầu cháy rực thật không chịu nổi. Hàng bầy muỗi tép lao vào ngọn lửa dầu vàng khè và xoay chung quanh nó trong một vũ điệu quay vòng bất tận. Người lớn cứ trò chuyện, còn tôi thì lắng nghe tiếng sủa vui cuồng vẳng từ ngoài sân vào. Rồi tôi chuồn ra khỏi nhà lao vào vùng trăng lạnh lẽo. Đêm cuối ở nhà Barnes là đêm trăng tròn. Phía trên cánh rừng đen thẫm vang rộn tiếng ve, một vầng trăng lớn trắng sáng toàn bích trôi lững lờ, một khối tròn vành vạnh – mặt trăng xưa cổ in dấu của hàng triệu năm tồn tại trên đời Còn phía dưới này, trên mặt đất, một chú chó nhỏ mê mụ đang chạy nhảy cuống quít trên cát trắng thanh sạch, sủa những tiếng gâu gâu liên hồi vui sướng. Mẹ của nó, con vật to lớn đẹp đẽ, ngồi cách đó một quãng và đưa đôi mắt màu vàng thông tuệ của mình lo lắng theo dõi vũ điệu điên cuồng của đứa con, máu mủ của người tình đến từ rừng sâu đã bị người ta giết hại. Tôi rón rén bước lại gần Stella, ngồi xuống một tảng đá vẫn còn âm ấm, ôm lấy cái cổ lông xù của nó và áp má vào cái hàm vẫn đang hướng về đứa con một cách âu yếm. Tựa người vào vồng ngực săn chắc ấm áp của chó mẹ, tôi gắng hòa nhịp thở đều cùng nó, và cả người và chó cùng ngước mắt lên phía vầng trăng lớn cũng đang chăm chắm nhìn lại chúng tôi, rồi sau đó cùng hướng xuống phía cuộn len nhỏ tròn đen bay vèo về phía chúng tôi như một tia chớp và đã kịp cuộn tròn lại dưới chân chúng tôi nhanh một cách lạ thường. Tôi và Stella không rời mắt khỏi cún con, mà ánh trăng tươi mới vẫn không ngừng cô đặc lại trên bộ lông xù của Stella, trên da dẻ của tôi. Rồi, cuối cùng thì “Người gốc Norfolk” cũng đã bước ra, gọi chó con, lấy hết sức mà gào lên mắng nó, đoạn, nhảy bổ vào chú chó ngơ ngẩn cuồng trí kia, nhét nó vào chiếc thùng gỗ, nơi có những vệt trăng vàng đang náu mình trong bóng đen đẫm mùi nồng tỏa ra từ lũ chó.

- Vào đi, nào, vào với nó đi, - “người gốc Norfolk” xoa đầu Stella và nói. Stella ngoan ngoãn bò vào ổ. Nó lấy mũi nhẹ nhàng lật chó con lại. Chó con kiệt sức đến nỗi chỉ còn nằm ngửa ra đờ đẫn, dạng bốn chân đang co giật như trong cơn giãy chết, thở những tiếng khò khè, đứt quãng. Rút cục, tôi cũng rời Stella và đứa con của nó, trở vào căn nhà gạch nhỏ, nơi mọi thứ đã bị nung bỏng lên bởi sự thù ghét lẫn nhau. Tôi thiếp đi, vẫn còn tưởng tượng trong đầu cảnh chó con đang ngủ, chân duỗi đơ ra vì mệt nhọc và chúi mũi vào cái mạng sườn đen đen thở phập phồng của chó mẹ, chú cún con bé tẹo, những vệt trăng chảy qua khe vào chiếc thùng gỗ thông, lén tràn lên bộ lông sặc sỡ của nó.

Sáng hôm sau, chúng tôi mang chó con theo, còn Stella thì bị chủ khóa chặt trong nhà từ trước để chó mẹ không nhìn thấy chúng tôi ra đi.

Suốt ba trăm dặm đường dài chúng tôi đi qua, con Billy, như một chú ngốc nhất đời, nằm chềnh ềnh ngửa bụng ra trên đầu gối tôi hoặc của mẹ tôi , sủa lên ăng ẳng, rồi thở hồng hộc, phì phò, ngáp dài, đoạn, nhắm nghiền mắt và khoan khoái duỗi người ra. Chẳng ai được lấy một phút yên thân với nó: cả tôi, cả mẹ tôi, cả anh trai tôi mà khi về đến thành phố chúng tôi đã đón cùng về vì ở trường đã bắt đầu kỳ nghỉ. Vừa mới nhìn thấy con chó mới, anh tôi đã tỏ ngay ra là chủ của con cún Joke mà gạt bỏ con cún của tôi ra như gạt bỏ một vật thể nằm dưới bậc thang tận cùng của sự tiến hóa vậy. Mẹ, người đến thời điểm ấy đã kịp bị Billy chinh phục hoàn toàn, cũng đồng tình với anh, nhưng vẫn nói rằng giá anh nhìn xem trên trán chó con có những nếp nhăn xinh xắn làm sao… Bố giận dữ bảo phải dạy dỗ hai con chó đúng kiểu mới được.

Xem phần 1phần 2.

Thụy Anh dịch theo bản tiếng Nga - Còn tiếp


 

Theo dòng sự kiện

 

Xem tiếp...

Những tin mới hơn

 

Những tin cũ hơn