Xem Phần 1 của bài viết.
Thanh Tâm Tuyền dưới con mắt của họa sĩ Đinh Cường
Tình yêu làm Thanh Tâm Tuyền trở nên lãng mạn, và đau khổ, nhục nhằn. Tình yêu xót xa hòa chung với sự đau khổ vì nỗi đời, vì mệnh nước”.
Nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc đã nhận định như thế về Thanh Tâm Tuyền và mảng thơ tình của ông. Ðúng vậy, thơ Thanh Tâm Tuyền, về căn bản, là thơ về tình yêu, và bên cạnh tình yêu tự do, bao trùm lên tất cả, là tình yêu nam nữ, tình yêu con người trong phận nổi trôi của đất nước.
Tuy nhiên, thơ tình của Thanh Tâm Tuyền khác hẳn thơ tình của các bậc thày tiền chiến như Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính... Trong thơ ông, tình yêu không cần những trợ lực truyền thống như
con sông, bến nước, cây đa, mà cũng không thấy những hình ảnh quen thuộc như
chú nai tơ, mùa thu vàng...
Bởi lẽ, tình yêu trong thơ ông là tình yêu của những cặp trí thức nơi đô thị, chìm đắm trong những bải hoải, mệt nhoài của những tâm tư hiện sinh về thân phận, những đau buồn của vận nước chia ly. Giới trẻ đương thời, dù khó thuộc nguyên văn một bài thơ của ông, nhưng không mấy ai không nằm lòng cảm xúc của “
những người khóc lẻ loi” trong “Lệ đá xanh”:
Tôi biết những người khóc lẻ loi
không nguôi một phút
những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
em biết không
lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời chỉ có trời sao là đáng kể
mà bên những vì sao lấp lánh đôi mắt em
đến ngày cuối
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời thơm phức những trái cây của Thượng Đế
mà bên những trái cây ngọt ngào đôi môi em
nguồn sữa mật khởi đầu
đôi khi anh muốn tin
ngoài đời đầy cỏ hoa tinh khiết
mà bên cỏ hoa quyến rũ cánh tay em
vòng ân ái
đôi khi anh muốn tin
ôi những người khóc lẻ loi một mình
đau đớn lệ là những viên đá xanh
tim rũ rượi
Tâm cảm của Thanh Tâm Tuyền, có lẽ đã đụng chạm tới những sợi dây tình cảm sâu xa của Phạm Ðình Chương, người chịu nhiều bất hạnh trong đời tư thời gian ấy, khiến nhạc sĩ họ Phạm đã phổ thành nhiều nhạc phẩm rất nổi tiếng và có sức lan tỏa, như “Dạ tâm khúc”, “Ðêm màu hồng”, và đặc biệt là “Nửa hồn thương đau”.
Cho dù kiêu hãnh ngay ở tựa đề tập thơ đầu tay “Tôi không còn cô độc”, nhưng Thanh Tâm Tuyền và tình yêu trong thơ ông, phần nhiều là cô quạnh, là cảm giác hôm nay bên nhau nhưng đã phải nghĩ tới khi xa nhau, trong mất mát và trong viễn ảnh đáng sợ của ngày mai, như thi phẩm nổi tiếng “Dạ khúc”:
Anh là thằng điên khùng
Ôm em trong tay mà đã nhớ em ngày sắp tới
Chiếc kèn hát mãi than van
Ðiệu nhạc gầy níu nhau tuyệt vọng
Sao tuổi trẻ quá buồn
như con mắt giận dữ
Sao tuổi trẻ quá buồn
như bàn ghế không bầy
Thôi em hãy đứng dậy
người bán hàng đã ngủ sau quầy
anh đưa em đi trốn
những dày vò ngày mai
Cảm xúc mong manh, rã rời của tình yêu và thân phận con người trong thơ Thanh Tâm Tuyền, thông qua hệ thống những biểu tượng mang màu sắc siêu thực của ông, đã có ảnh hưởng lớn đến giới nghệ sĩ trẻ thời đó, đặc biệt là ca từ trong nhạc tình của Trịnh Công Sơn. Nhưng không dừng ở đó, trên cương vị người đổi mới thi ca, đồng thời ông cũng là người khát khao đổi mới tình yêu:
Con đường chưa ai tới
Màu hoa nào chưa ai trao nhau
Những nghĩa chữ còn hoang
Câu thề thốt lạ thường
Nơi không gian còn tuyết trinh
Lửa ấm cho lời nói
Những đêm sao ở mắt nhìn
Bắt đầu từ trao tặng
Bắt đầu từ một lần hò hẹn
Cách nắm tay nghẹn ngào
Ngón tay âm thầm trò chuyện
Những bước chân thỏ rừng
Chạy trên cỏ sắc
Sợi tóc đen như một chuỗi cười
Trên chúm môi lá biếc
Những chòm hôn vội vàng
Làm những vì sao đổi ngôi
Anh muốn làm mới tình yêu
Những khi thoát khỏi hoặc tạm bỏ qua tâm trạng hoài nghi, xót xa và dằn vặt trong tình duyên, Thanh Tâm Tuyền đã có những vần thơ trong trẻo, đầy nhạc tính, nhịp thơ của ông dồn dập và tràn đầy hành động như trong “Bài thơ của tháng Giêng”:
Anh phải làm mới tình yêu
Như sửa sang nhà cửa
Như xây dựng thành phố
Như vun bón ruộng vườn
Như nhìn vào vũ trụ
Khi thế giới vừa dựng
Sẽ mời mọc tình nhân
Khi mặt trời vừa thức
Đòi gặp mùa xuân
Cho làn mi lá ngủ
Cho khoé mắt biển sâu
Cho đồi hoa bát ngát
Bài thơ tình đã bỏ
Ngôn ngữ thiên nhiên của mọi tình duyên là một
Phải làm mới tình yêu
Coi chúng ta là những người thứ nhứt
Trên trái đất này biết yêu nhau
Để những cặp tình nhân khác bắt chước
Để con cái sau này không khổ đau.
Tình yêu trong thơ ông, có lúc hòa cùng thiên nhiên, vạn vật, và qua đó, gắn kết với quê hương, như câu kết tiểu thuyết “Bếp lửa”, được sáng tác năm 20 tuổi mà như nhà phê bình Ðặng Tiến, “
một câu kết, để đời, – khi hiu hắt, khi ngời sáng, trong tâm thức thế hệ chúng tôi”: “
Anh yêu quê hương vô cùng và anh yêu em vô cùng”.
Em bao giờ là thiên nhiên
anh cúi đầu xuống ngực
giòng mưa sắc lá
đau môi
Cỏ của hoa và hoa của cỏ
những ngón tay những ngón chân những nụ cười
nắng tháng ba mưa tháng bảy sương tháng chín
cho thơm đường hôm nay đến sớm mai
hôn từ ngày dài tội lỗi
chưa quên
(...) cỏ ơi cỏ kết thành lời
dàn nhạc huy hoàng
cô đơn
Giấc vụng về
tia nhọn sáng
đừng rơi hoàng hôn cánh rừng dầy
những ngực thương nhau
không áo
vì cỏ dại rối bời
Chúng ta ôm thời gian trong suốt
chẳng phân vân
như mặt trời chuyện trò cùng lũ cỏ
như lá cây thầm ngã phủ vai trần
như tiếng tim thốt cười ngoài dĩ vãng
Thanh Tâm Tuyền, cũng có lúc, đã khắc họa tình yêu mê mải, miệt mài, hòa quyện với những hoài niệm xa xưa, như trong “Liên, những bài thơ tình thời chia cách”, một “tiểu trường ca” gồm 6 đoản khúc, với lời khẳng định đầy trừu mến trong hai câu thơ mở đầu:
Sự em có mặt cần thiết như những sớm mai
(nếu đời người không có những sớm mai)
để rồi khắc họa tình yêu bình dị, sáng trong nơi đô thị:
Anh nhớ em cùng một lúc với thành phố
với những con đường anh đi qua một lần
để đến nhà em anh băng ngang một vườn hoa vắng
(lần trở về anh ngồi xuống ghế dài
nếu là buổi chiều quạnh hiu mây lá mùa thu)
một phố bình dân có chợ và những quán ăn
giản dị như trang nhật ký của anh
ngày bắt đầu yêu em
(...) Sự vắng mặt của em và bãi biển mùa đông
thành phố đau từ mỗi cột đèn
mỗi bực thềm cửa đóng
em đi không nón không áo choàng
mừa tầm tã
những cửa sổ đêm muốn hé ra
nổi loạn
và mắt em mặt trời cỏ hoa với môi anh đằm thắm
và rực rỡ nhớ thương
Quá khứ trong thơ Thanh Tâm Tuyền, có khi khiến ông chìm đắm:
Nét cong môi hồng mắt tình cờ
ngực hoa yếu đuối
những miền không gian được gọi qua
tình yêu không thẹn thùng
đâu phải một thứ mưa ô bay vào thành phố
năm cửa ô hồi sinh trên xác năm cửa tù
mưa nắng cùng rủ nhau xuống Sinh Từ ngõ Hội vũ
bao nhiêu đường tình tự ga Hàng Cỏ
nụ hôn đầu ôm mái tóc lang thang
tà áo bàn tay hương trẻ con
hoàng hôn tỉnh
kim khí khua trong bước trở về nhà cửa
sự vắng mặt không thể lâu hơn nữa
thù nghịch tan vào hơi thở
trong giấc hôn mê thôi khóc tiếng mèo đêm
tình yêu mầu nhiệm hoàn thành
vĩnh viễn
thì cũng chỉ để nhấn mạnh tình yêu hiện tại, với tất cả những sắc màu, cung bậc của tình cảm, lúc trầm lặng, lúc mạnh mẽ và đầy chất lửa:
có thể em chết trước khi anh kịp về
mùa lạnh gian phòng cũ
không ai khép cửa sổ
cúi xuống viền mi những bóng tối bên ngoài
có thể rồi anh sẽ yêu người đàn bà thứ hai
anh không chối
nhưng mãi mãi em còn là đất dĩ vãng
mà rễ tình cảm đòi bén gần
và những viên gạch những lối xưa
còn chiêm bao gót em mềm âu yếm
em ơi tình yêu thương đến vào buổi chiều
đúng hơn là buổi sáng rừng tâm hồn ta
vậy sao em lại ngủ
ngủ trong lòng mộ trong nghĩa địa thân thể anh
với áo cỏ may châm da thịt
anh đã đến từ biệt lùa mái tóc vào những ngón tay
những giọt lệ sương lấp lánh
anh hứa trở về không đối diện với thù
giòng sông chỉ còn tiếng sóng vỗ
cười tung lồng ngực chứa chan
thành phố đứng cao làm hiệu
rằng anh còn trở về
rằng anh còn người yêu
nàng công chúa ngủ trong rừng không giận hờn
LIÊN
Người nghệ sĩ từng hô vang “
tôi không còn cô độc”, nhưng thực ra đã cô độc với những đổi mới, khai phá trong hình thức và nội dung thi ca, đã kiêu hãnh đặt tựa đề “Bài ngợi ca tình yêu” cho một thi phẩm đỉnh cao, như một tuyên ngôn về tình yêu và tự tình dân tộc, từng được Phạm Ðình Chương phổ nhạc:
Tôi chờ đợi
lớn lên cùng giông bão
hôm nay tuổi nhỏ khóc trên vai
tìm cánh tay nước biển
con ngựa buồn
lửa trốn con ngươi
Đất nước có một lần
tôi ghì đau đớn trong thân thể
những giòng sông những đường cầy núi nhọn
những biệt ly rạn nức lòng đường
hút chặt mười ngón tay ngón chân da thịt
như người yêu từ chối vùng vằng
(...) Em gối đầu sương xuống
chuyện trò bằng bóng hình
Tôi đẹp như hình tôi
như cuộc đời
như mọi người
như chút thôi
anh yêu lấy em
Em là lá biếc là mây cao là tiếng hát
sớm mai khuya thức nhiều nhớ thương
em là cánh hoa là sương khói
đêm màu hồng...
Vụt vào thi đàn Việt Nam ở tuổi hai mươi như một ánh chớp, với tuyên bố gây sửng sốt “
ta hai mươi tuổi như nhân loại”, Thanh Tâm Tuyền đã đốt cháy mình trong hai tập thơ đầu. Như nhận xét của Ðặng Tiến: “
Thơ Thanh Tâm Tuyền, tự nó, là một thế giới, và đồng thời một không gian nhìn ra thế giới. Đây là đặc tính của thơ Thanh Tâm Tuyền, ở những nhà thơ khác dù rất hiện đại, cũng không có, hoặc không rõ nét”.
Trong nỗ lực cách tân triệt để ấy, Thanh Tâm Tuyền dù gây được ảnh hưởng lớn lao nhưng ông đã không có người kế tục. Từ mốc 1945, thơ tự do của Việt Nam, khởi đầu từ Nguyễn Xuân Sanh của “Xuân Thu Nhã Tập”, qua Nguyễn Ðình Thi, Trần Mai Ninh, Hữu Loan, đến hai tên tuổi lừng lẫy, hai vị chủ soái là Trần Dần ở miền Bắc và Thanh Tâm Tuyền ở miền Nam, đã đặt ra những cột mốc mà các tác gia hiện tại vẫn chưa, hoặc không có khả năng vượt qua.
ở thành phố thiếu thốn
ở làng mạc đọa đầy
tôi là tiếng nói là tiếng khóc
những người bỏ đi hẹn trở về
những người mím hơi thừa chịu đựng
tôi chờ đợi
tôi là tiếng thơ là tiếng cười
mai Việt Nam hỡi mai Việt Nam
Năm năm sau ngày ra đi, khoảng trống mà Thanh Tâm Tuyền để lại trong thi đàn Việt Nam vẫn y nguyên, như ngày nào...