Tiếng Hung là một giá trị đặc biệt, tượng trưng cho sự gắn kết dân tộc và sự phong phú của nền văn hóa Hungary. Theo lời của văn hào Gárdonyi Géza (1863-1922), tác giả "Những ngôi sao Eger" (Egri csillagok) - một tác phẩm mà có lẽ bất cứ ai có liên quan tới Hungary đều phải tìm đọc - "Báu vật chính của mọi quốc gia là ngôn ngữ của nó. Bất cứ cái gì mất đi bạn còn có thể lấy lại được, nhưng nếu đánh mất ngôn ngữ của bạn thì Ông Trời cũng không bao giờ cho lại được".
Nhân dịp này, xin đưa lại một trích đoạn trong cuốn "Những người Hungary đoạt giải Nobel" (Nobel díjas magyarok, Helikon kiadó/ Nap kiadó, 1997) của cố tác giả Bödök Zsigmond, do dịch giả Giáp Văn Chung dịch từ nguyên bản tiếng Hung, về sự đặc biệt và vẻ đẹp của tiếng Hung, mà tiếc là đa số các bạn theo học, vì những lý do dễ hiểu này khác, đã "đầu hàng" trước khi cảm nhận được sự kỳ diệu của nó. Chân thành cám ơn anh Chung vì bản dịch rất tuyệt vời này!
Là những người Hung, chúng ta có thể yên tâm khẳng định rằng chúng ta không chỉ là một cường quốc trong khoa học, mà còn cả trong văn học. Nhưng thật đáng tiếc "tính cường quốc văn học" của chúng ta bị kìm hãm trong vòng "tù ngục" của chính ngôn ngữ của chúng ta. Chính vì ngôn ngữ Hungary xa lạ với mọi ngôn ngữ khác, và nó tồn tại trong cảnh đơn lẻ không họ hàng đã một thiên niên kỷ nay bên lề những đại gia đình ngôn ngữ Châu Âu.
Để dân tộc Hung trường tồn qua những thế kỷ máu lửa tới hôm nay, ngôn ngữ đóng một vai trò hết sức quan trọng, trong nhiều trường hợp và giai đoạn kéo dài nó là giá trị lưu truyền và chốn nương náu duy nhất của dân tộc.
Chỉ chúng ta biết rõ tiếng mẹ của ta có khả năng diễn tả một cách linh hoạt tuyệt vời, nhạy cảm, tinh tế, có vốn từ phong phú hiếm thấy, đồng thời cô đọng và nhịp điệu dồn dập như thế nào. Chia sẻ vốn liếng vô giá này ngày nay chỉ có 15 triệu người trên khắp hành tinh.
Thực sự thưởng thức hết những cái hay cái đẹp của những gì mà các nhà văn, nhà thơ như Vörösmarty Mihály, Arany János, Petőfi Sándor, Madách Imre, Ady Endre, Krúdy Gyula, Kosztolányi Dezső, József Attila, Radnóti Miklós, Weöres Sándor, Tamási Áron, Márai Sándor, Nagy László - còn có thể kể thêm tên nhiều người khác nữa - phải là người đã nghe những lời hát ru bằng ngôn ngữ Hungary từ khi còn nằm trong nôi.
Các bản dịch không bao giờ có thể cho ta một phiên bản trung thành của tác phẩm: nhịp điệu thay đổi, hình ảnh ngôn ngữ yếu ớt, vần điệu lệch lạc, sự bay bổng của vần thơ và cùng với nó là ý tưởng bị đứt gãy. Vì ý tưởng và ngôn ngữ liên hệ hữu cơ với nhau và cùng ẩn náu đâu đó trong những góc khuất của não bộ, chúng chỉ có khả năng sáng tạo hoàn mỹ khi song hành cùng nhau.
Chúng tôi có thể đưa ra nhiều ví dụ về con em của các dân tộc khác đã học tiếng Hung ở tuổi trưởng thành, nói về ngôn ngữ của chúng ta một cách say mê như thế nào. Tonu Kalvet, người Estonia, tự học thành thạo tiếng Hung, đã bộc bạch: "... tiếng Hung là thứ ngôn ngữ được ban tặng sức mạnh thần kỳ, tôi đã hoàn toàn bị nó chinh phục "không gì cứu vãn nổi". Tất cả những ai biết một chút tiếng Hung đều cảm thấy như mình đã tìm ra một mỏ vàng trước đó chưa được phát hiện.
Bạn có thể tận thấy bằng mắt mình những báu vật mà trước đó bất quá bạn chỉ nghe thấy hoặc thường là do hạn chế của hàng rào ngôn ngữ bạn chẳng hề có khái niệm gì về chúng. Người như vậy khi làm quen với các tác phẩm văn học của các tác gia lớn Hungary, thì không bao lâu sau sẽ thấy chúng không hề kém cạnh gì các tác phẩm của các nhà kinh điển nổi tiếng trên thế giới; bạn sẽ suy ngẫm về những tác phẩm của các nhà tư tưởng Hung và phải thật sự kinh ngạc về nội dung thâm trầm của chúng.
Chiêm ngưỡng những phát minh kỳ diệu của các nhà khoa học và sáng chế Hungary, bạn khó có thể tìm ra lời giải thích nào khả dĩ cho hiện tượng không thể tin nổi: làm sao một dân tộc nhỏ bé có thể làm phong phú kho tàng khoa học của thế giới bằng nhiều phát minh, sáng chế mới với một tỷ lệ cao đến như thế...".
Hồng y giáo chủ Giuseppe Mezzofanti (1774 -1849), người nói được 58 thứ tiếng, trong thư gửi nhà ngôn ngữ học Tiệp Frank Ágoston năm 1836, đã viết những dòng sau đây (Watts Transaction of the Philosophical Society, 1885): "Các vị có biết thứ ngôn ngữ nào mà vì khả năng sáng tạo và vì sự hài hòa nhịp điệu của nó, tôi xếp trên các ngôn ngữ khác, ngang với tiếng Hy Lạp và La Tinh? Đó là tiếng Hung! Tôi biết những thi phẩm của các thi sĩ Hungary thế hệ mới, âm điệu của chúng đã làm tôi say mê... Ngay những người Hung cũng không biết ngôn ngữ của họ hàm chứa những báu vật thế nào".
Sir John Bowring (1972-1872) - dịch giả và chính khách, biết nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Hung. Ông thường liên hệ với Vörösmarty và đã sang Hungary. Trong cuốn tiểu luận tựa đề "Poetry of Magyar’s" (Thi ca của những người Hung) xuất bản năm 1830, giới thiệu bản dịch của 26 bài dân ca và gần một trăm bài thơ của các nhà thơ Hungary. Năm 1832, ông trở thành viện sĩ thông tấn của Viện Hàn lâm Khoa học Hungary, năm được 1987 Hội Kisfaludy kết nạp làm hội viên.
Ông là tác giả của những lời bộc bạch sau về ngôn ngữ Hungary: "Tiếng Hung có gốc gác từ quá khứ xa xưa. Nó hình thành và phát triển theo một cách thức riêng biệt, cấu trúc của nó xuất phát từ cổ xưa, khi những sinh ngữ Âu Châu ngày nay còn chưa tồn tại, trong ngôn ngữ ấy ẩn chứa một thứ logic thâm hậu, kết hợp với khả năng thích ứng và sự linh hoạt của âm thanh và sức mạnh. Người Anh có thể tự hào ngôn ngữ của mình mang trong nó lịch sử của nhân loại. Nguồn gốc của nó có thể chỉ ra được, có thể hiển thị những lớp lang ngoại lai mà nó đã du nhập trong quá trình tiếp xúc với các dân tộc khác.
Ngược lại, ngôn ngữ Hung giống như một tảng đá nguyên sơ duy nhất, ngay cả bão tố thời gian cũng không mảy may làm xây xước nổi một tẹo nào. Nó không phải là một cuốn biên niên thích ứng những thay đổi của các thời đại. Nhưng nó cũng không cần phải làm điều đó: nó không vay, không cho, nhưng cũng không tước đoạt gì của ai. Đây là thứ ngôn ngữ cổ xưa nhất và đài tưởng niệm vinh quang nhất của sự tự chủ dân tộc và độc lập tư tưởng.
Những gì các nhà khoa học không giải quyết được, họ thường bỏ qua. Trong ngôn ngữ học cũng như khảo cổ học. Nóc các thánh đường Ai Cập cổ đại là những phiến đá duy nhất, và không có lời giả thích. Không ai biết chúng có nguồn gốc từ đâu, người ta đã đưa những khối đá tuyệt vời ấy từ ngọn núi nào tới. Càng không biết người ta đã chuyên chở và đặt chúng lên nóc các thánh đường bằng cách nào. Xuất xứ của ngôn ngữ Hung còn kỳ lạ hơn thế. Một khi nào đó có người giải mã được điều bí mật ấy, người đó đã tìm ra bí ẩn thần thánh...". (...)