Trong rừng mọi vật tối tăm, tôi chỉ biết dò đường bằng địa bàn. Tôi lắng nghe những tiếng lào xào quen thuộc của khu rừng chập tối: lũ sáo sậu đã chấm dứt dàn đồng ca của chúng, những loài vật nhỏ len lỏi đi kiếm mồi. Tôi còn phải tính đến những bước chân nặng nề của đàn hổ nữa: chúng cũng không phải thứ hiếm ở vùng này.
Trời đã tối hoàn toàn. Tôi bước nhẹ không tiếng động, hầu như tôi dám quả quyết rằng có một thủ hạ của Ri Hong đang rón rén đâu đó quanh tôi, để ý xem tôi làm gì và làm ra sao. Đôi khi, tôi có thể dùng đèn pin nhưng tôi luôn lấy tay che ánh sáng của nó. Cánh rừng chìm đắm trong màn đêm tĩnh mịch.
Tôi cứ tiến như thế và có cảm giác như thời gian là vô cùng tận. Bầu không khí yên lặng ma quái ngự trị trong cánh rừng, chỉ đôi lúc có một làn gió nhẹ vút qua giữa các ngọn cây. Tất cả tạo nên một ấn tượng khá ghê rợn. Tôi biết phần này của trận thử thách chủ yếu là đánh vào tâm lý: ngay việc đi trọn quãng đường dài như vậy trong rừng, vào ban đêm, cũng đã là một thành tích khá rồi. Tôi hay nảy ra ý nghĩ: hay là bỏ chạy? Nhưng chạy đi đâu cơ chứ? Không đâu có chỗ ẩn náu cho tôi cả. Cùng lắm tôi có thể quay lại. Nhưng tôi cũng chưa đến mức thần hồn nát thần tính như thế.
Đột nhiên, tôi chợt liếc thấy ánh sáng từ đằng xa. Tôi tắt và cài lại chiếc đèn pin vào thắt lưng. Tôi cất địa bàn, tiếp tục rón rén nhẹ nhàng từ gốc cây này sang gốc cây khác. Đi như thế được chừng mươi mét thì đến lề rừng. Tôi đã thấy cổng chính của tòa đại sứ.
Cả hai bên cửa đều có những ngọn đèn tỏa sáng chìm trong tường, cả hai bên đều có lính canh. Cạnh đó là một trạm gác nho nhỏ, bên trong cũng sáng điện. Một bức tường trắng cao khoảng bốn thước rưỡi bao quanh khu vực này. Sau bức tường, nếu tôi nhớ không nhầm khi xem bản đồ, có vài khoảng đất trồng hoa, rồi một thảm cỏ dốc dẫn thẳng đến tòa nhà. Nhìn từ cổng ra vào, đã có thể thấy tòa nhà đó.
Tôi theo dõi đám lính canh một lúc. Ngoài hai người lính trực, dường như trong trạm gác cũng có một người và chắc hẳn trạm này được nối với tòa đại sứ bởi một đường dây điện thoại. Một chút sau, một tổ tuần tiễu gồm ba người đi ngang qua đám lính canh, họ vừa trò chuyện vừa vẫy những kẻ trực chiến.
Tôi tụt lại trong rừng và đi về hướng phải, hơi rời xa cái cổng. Tôi mò đến được góc tường và tiếp tục đi theo bờ tường bên kia về phía tòa nhà. Lại một tổ tuần tra nữa đi qua, tôi nằm bẹp giữa những lùm cây cho đến khi họ mất hút. Buộc lưỡi móc vào sợi dây, tôi vội vã ra khỏi cánh rừng và ném sợi dây qua tường. Lưỡi móc mắc vào tường. Tôi trèo lên thành tường, ngồi ở đó và kéo theo sợi dây, chỉ sau đó tôi mới nhảy xuống phía trong.
Tôi thấy mình ở trên thảm cỏ tòa đại sứ, cách tòa nhà chừng ba mươi-ba lăm mét và cách cổng ra vào một khoảng gấp đôi từng ấy. Tôi cũng thấy một toán lính đi tuần xung quanh tòa nhà, nhưng đúng lúc đó họ rời xa tôi. Dán mình vào bờ tường, đột ngột tôi vắt chân lên cổ chạy và cuối cùng, tôi đã ở cùng một hàng với tòa nhà.
Tòa nhà được xây theo trường phái tân cổ điển, phía trước có những kèo cột kiểu Hy Lạp và một sân thượng rộng rãi. Từ bức tường vào đến nhà, tôi còn phải vượt qua chừng mười lăm mét trên địa hình trống trải. Ngó qua cửa sổ, tôi tìm thấy cái thư viện được rọi sáng rất rõ. Khi đó, tôi ngồi sụp xuống trong bóng tối và xem kỹ lại một lần nữa sơ đồ khu nhà. Trên thư viện là một sân thượng có hàng hiên bằng đá, một phòng khách hướng ra đó. Tôi ngửng lên nhìn và thấy trong căn phòng ngủ này không có điện. Nếu quả thực cái tủ sắt nằm trong thư viện, đột nhập theo đường này là thông minh nhất.
Tôi lại ngó vào thư viện. Một người phục vụ bước vào và mời trà các vị khách. Tôi không biết họ có bao nhiêu người, một hay nhiều? Tôi tự hỏi: đợi cho đến khi không còn ai trong thư viện, hay cứ đột nhập vào tòa nhà ngay từ bây giờ và ẩn náu ở đó. Tôi quyết định đột nhập ngay tức khắc. Trời càng ngày càng lạnh, vả lại, có thể về sau phòng ngủ sẽ có người. Hơn nữa, chui thẳng vào thư viện, cho dù không có ai ở đó, cũng là điều ngu xuẩn vì gần như chắc chắn là người ta đã đặt máy thu hình trong đó.
Nhưng làm sao lên được căn phòng đó? Tôi hơi bước ra xa, thận trọng để dừng dẫm phải thiết bị báo động, và nhận thấy một máng nước mưa ở góc tòa nhà. Tôi nhìn quanh: không một ai. Cúi đầu sát đất, nhanh như gió tôi lao qua thảm cỏ. Tôi dán mình vào tường và nhìn quanh xem có lính gác không? Một toán lính tuần tiễu đến gần cạnh trước của tòa nhà, đối diện nơi tôi đứng, tôi nghe thấy tiếng chân và câu chuyện cố kìm của họ. Bám lấy ống máng, từ từ tôi leo lên. Tôi nhào khỏi làn can đúng vào lúc đội tuần tra xuất hiện. Tim đập thình thịch, tôi ẩn người giữa những cây cột hoa lệ và chờ cho họ đi khỏi hẳn. Nếu chậm một thoáng nữa, hẳn họ đã phát hiện ra tôi.
Tôi liếc nhìn cửa sổ buồng ngủ. Trong phòng vẫn tối om, vì vậy tôi trườn vào phòng, thận trọng để dưới thư viện người ta đừng nghe thấy tiếng chân tôi. Đến gần chiếc cửa sổ đầu tiên, tôi tìm cách mở nhưng nó bị khóa chặt. Tôi lẻn qua cửa ra vào, thử mở cửa sổ thứ hai. Nhưng nó cũng bị khóa kín.
Cuối cùng tôi bước đến cửa ra vào. Chẳng những nó bị khóa mà trên đó, tôi còn nhận ra những sợi dây dẫn chứng tỏ thiết bị báo động bên trong. Như vậy, thử mở cửa ra vào không phải là việc làm thông minh.
Tôi trườn về cửa sổ thứ nhất, hơi nằm về phía sau căn nhà. Tôi móc ba-lô lấy con dao cắt kính và khoét một lỗ kính, trên một chút so với cái điểm mà tôi nghi là có tay cầm. Bỏ mảnh kính ra, thò tay vào, tôi tìm thấy then cửa và rút một cái. Cánh cửa sổ được nâng lên, kêu nho nhỏ. Thế là tôi vào được nhà.
Trườn vào phòng, tôi đóng cửa sổ. Tôi đặt lại miếng kính bị cắt vào vị trí của nó, rất khít. Sau đó, tôi bắt đầu áng chừng địa hình.
Hầu như tôi không thấy gì khác ngoài việc chẳng có ai trong phòng ngủ. Cạnh một bên tường, có một cái giường kiểu sang trọng Baldacco và một lò sưởi chạm trổ lộng lẫy. Những bức trướng nhung rủ từ trần nhà. Tôi không xác định nổi là căn phòng này có người ở không. Phòng có ba cửa ra vào, một cửa hướng ra kho chứa quần áo, cửa kia dẫn ra nhà tắm, cửa thứ ba mở ra cầu thang. Cánh cửa này mở hờ khiến tôi có thể nhìn qua được. Hành lang tầng một ngập dưới ánh đèn sáng chói, kéo dài chừng 18-20 mét đến đầu kia của tòa nhà. Cầu thang nằm ở giữa hành lang. Tôi mở rộng cánh cửa chút xíu, cố gắng mường tượng trước mắt sơ đồ tòa nhà. Ngoài hành lang, ở cả hai phía phải có một cánh cửa phòng ngủ, rồi cách đó chừng sáu thước lại có hai cửa nữa. Rồi đến cầu thang và năm cánh cửa nữa, hai cửa ở hai bên và cửa thứ năm ở chính diện với tôi, cuối hành lang.
Tôi đóng cửa, liếc nhìn đồng hồ. 22.00 giờ. Từ giờ đến nửa đêm, có lẽ ai nấy sẽ lên giường. Tôi không thể làm gì khác, chỉ biết chờ đợi.
Tôi mở cánh cửa vào kho chứa quần áo, bật đèn pin. Nhà kho rộng rãi, chật cứng các bộ âu phục và quần áo dạ hội may kiểu phương Tây. Tôi chui vào sau kho, nấp sau một rèm cửa bằng một thứ vải dạ đắt tiền gì đó, và tắt đèn. Nếu phòng ngủ có người ở, tôi phải chờ đến khi họ ngủ say, lúc đó tôi mới có thể xuống tầng dưới được. Trước mắt, tôi không thể tìm được nơi trú ẩn nào tốt hơn vì nếu ra hành lang, hẳn tôi sẽ gặp nguy hiểm.
Một giờ trôi qua. Tôi bắt đầu cảm thấy toàn bộ tình thế hơi vô nghĩa. Một phụ nữ ở độ tuổi hai mươi như tôi đang ngồi đây, kẻ đã bí mật đột nhập vào một tòa đại sứ trá hình để được làm gián điệp. Tất cả những điều này mới xa lạ làm sao với cuộc đời thường nhật, với những món ăn mẹ tôi thường nấu ở nhà, với hình ảnh cha tôi thiu thiu ngủ mỗi chiều, với cảnh các em tôi cãi cọ nhau? Chẳng biết giờ đây họ làm gì? Có lẽ họ cũng đang nghĩ đến tôi?
Cửa phòng ngủ bật mở và điện được bật lên, làm gián đoạn luồng suy nghĩ của tôi. Tôi nghe tiếng chân và tiếng nói chuyện của một người đàn ông và một phụ nữ. Họ nói tiếng Nhật dù tôi không hiểu hoàn toàn. Toàn thân tôi căng lên, tim đập thình thịch, khẩu AK-47 chạm vào tường. Tiếng nói của người phụ nữ ngày càng to và đột nhiên, đèn bật sáng trong nhà kho. Ánh sáng xuyên quá đống quần áo, hắt vào cả mắt tôi. Người phụ nữ phá lên cười và buông một câu đại loại "sống ở Kairo nửa năm thật là kinh người", nếu tôi hiểu đúng. Những chiếc móc áo trượt về phía tôi cùng các bộ quần áo treo trên đó. Người phụ nữ sột soạt cởi quần áo rồi treo lên móc. Sau đó, bà ta lấy gì đó từ một cái móc khác, thình lình tắt điện và tôi lại ở trong bóng tối. Tiếng bà ta xa dần. Tôi không biết người đàn ông có vào cùng bà ta không, nhưng nhiều phút trôi qua và tôi không thấy ông ta. Sau đó tôi thấy một cách mập mờ là người ta tắt điện ở phùng ngủ và vài phút sau, bầu không khí trở nên tĩnh lặng.
Mạch tôi giần giật. Giờ đây, tôi phải chờ ít nhất hai tiếng cho đến khi họ ngủ. Tôi nhắm mắt, dựa đầu vào tường. Phải ứng khởi lập tức, tôi nghiền ngẫm, nhưng biết làm gì với một thời hạn ngắn ngủi như thế này? Tôi chỉ có thể cân nhắc đến chừng nào chưa phải hành động.
Khi cảnh yên tĩnh đã kéo dài khá lâu, tôi thận trọng rẽ đóng áo quần và đứng lên. Cửa nhà kho hơi để mở. Tôi nghe ngóng rồi mở rộng thêm cánh cửa.
Đột nhiên tôi để ý đến một tiếng lạo xạo. Tôi quay ngoắt lại và thấy người phụ nữ ngồi dậy trên giường. Nhưng đèn đã bật sáng và tôi phải chớp chớp mắt vì nhức.
- Im mồm! - tôi thét lên bằng tiếng Nhật và rút súng lục tiến đến gần bà ta. Đó là một phụ nữ trung niên, đầu phi-dê lịch sự kiểu phương Tây. Bà ta mặc bộ đồ ngủ rất đắt tiền màu vàng nhạt. Miệng bà ta mở, tay ôm mặt. Khi tôi chỉ còn cách vài bước chân, đột nhiên người phụ nữ mỉm cười và thả tay xuống.
- Được rồi - bà nói tiếng Triều Tiên. - Chúng tôi coi như đã tử trận, hoặc đã bất tỉnh nhân sự. Cô có thể bỏ qua chúng tôi rồi.
Tôi lưỡng lự đứng lại.
- Đừng lo lắng, Okhva ạ - bà ta an ủi tôi. - Trước sau chúng tôi cũng tính đến cô. Đặc biệt, tôi đánh giá cô vì cô đã không hạ thủ tôi.
Tôi mỉm cười sau chiếc mặt nạ.
- Hy vọng bà sẽ tắt điện và im tiếng.
- Tất nhiên - người phụ nữ đáp. - Chúc cô may mắn.
Người đàn ông ngáy trong suốt khoảng thời gian đó và không có dấu hiệu gì chứng tỏ ông ta nghe thấy một lời nào. Tôi hạ khẩu súng lục và tiến đến cánh cửa. Ngọn đèn tắt phựt.
Tôi vù ra hành lang. Ở đó chỉ có một vài ngọn đèn đêm chiếu rọi. Tôi rón rén tiến đến cầu thang, dẫn xuống tầng một bằng một khúc lượn rộng. Tôi đi đôi giày đến cao su nên không gây ra tiếng động trên những bậc thang bằng đá cẩm thạch. Lăm lăm khẩu súc lục trong tay, tôi bước vào căn tiền sảnh rất rộng va suýt nữa tôi đâm sầm vào người lính gác ngồi bên chiếc bàn làm việc cạnh cửa ra vào.
Chúng tôi nhận ra nhau cùng một lúc, nhưng trước khi người lính gác kịp trở tay, tôi đã hạ vài phát đạn vào người anh ta. Sơn bắn toe toét trên ngực áo và trên mặt trái anh ta, anh ta cười ruồi và nằm lăn gọn ghẽ ra sàn.
Đứng trên bậc thang cuối, tôi nhìn quanh. Ở hai bên phải và trái, có những hành lang được chiếu sáng lờ mờ với những cánh cửa. Thư viện nằm ở cuối hành lang bên trái, cửa đóng then cài. Không thấy ánh điện ở dưới cánh cửa, vì vậy tôi có thể giả thiết là không có ai trong đó. Khi đó, tôi nhìn lên và thấy một chiếc máy ca-mê-ra đang từ từ quay về phía tôi. Lăp tức tôi nằm bẹp xuống để tránh góc nhìn của chiếc máy, và lăn đến giáp tường. Tuy nhiên, tôi phát hiện ra con mắt điện tử ở trên tường, trên tôi đôi chút. Tim tôi lại đập thình thịch. Tôi chưa hành động theo phương pháp và sai lầm tiếp theo của tôi có thể là sai lầm cuối. Khi chiếc máy ca-mê-ra quay sang hướng khác, tôi đứng dậy và lao về phía thư viện. Cửa ta vào đóng kín. Tôi phải mất một phút mới móc được chiếc chìa khóa giả ra và mở được cánh cửa, tôi nhào vào phòng rồi khóa cửa lại.
Tôi bật chiếc đèn pin. Chiếc tủ sắt phải nằm sau một bức họa ở gần cửa ra vào. Tôi rờ rẫm dọc tường rồi dừng lại ở một bức thủy họa có vẻ đáng ngờ. Tôi hạ bức tranh khỏi tường và quả thực là chiếc tủ sắt nằm sau nó.
Tôi đặt chiếc ba-lô xuống, lấy chiếc ống nghe khám bệnh để mở tủ sắt. Tôi quay chiếc vòng, lắng nghe xem khi nào có tiếng khe khẽ. Chưa đày một phút và chiếc tủ sắt bật mở.
Tôi thò tay vào tủ và tìm thấy một tờ giấy duy nhất. Tôi mở giấy ra xem:
"Okhva" - tôi thấy dòng chữ viết bằng tiếng Nhật trên giấy - "cô đã đi được một nửa trên con đường đến đích! Buổi sáng, khi gặp lại sĩ quan huấn luyện Ri Hong, hãy nhắc lại điều này, càng chính xác càng tốt. Chúc cô may mắn."
Trần Lê chuyển ngữ - Còn tiếp
Theo dòng sự kiện
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn