Nhịp Cầu Thế Giới Online

http://nhipcauthegioi.hu


“ÔNG LENIN Ở NƯỚC NGA...”

(NCTG) “Lenin đã làm được gì cho Ukraine, mà Ukraine cần giữ tượng đài Lenin ở mọi nơi? Những pho tượng ấy đã được dựng lên - và có thể phù hợp với ý thức hệ bị cưỡng bức của một thời kỳ nào đó, khi dân tộc Ukraine chưa được độc lập - thì bây giờ, sau hai mươi ba năm, nếu thấy nó không còn phù hợp nữa, người ta hạ xuống. Có gì đáng thương khóc?”.

Tượng Lenin từng “án ngữ” trước nhà máy luyện kim Csepel (Budapest) từ năm 1958, nay được gom lại một chỗ ở Công viên Tượng (ngoại ô Budapest)
 
“Ông Lenin ở nước Nga
Cớ sao lại đứng vườn hoa nước người?”

Trên diễn đàn của người Việt ở Ukraine, có tin chính quyền một thành phố ở xứ này quyết định hạ tất cả tượng đài Lenin ở địa phương để tránh những vụ phá phách của những kẻ không ưa thích vị lãnh tụ vô sản. Và sau mẩu tin, có nhiều ý kiến thương khóc, trách móc của độc giả Việt, cho rằng hành động trên là “phản bội quá khứ”, “tráo trở”, “ăn cháo đá bát”, v.v...

Đọc những bình luận đó, có thể liên tưởng tới những vần thơ “bất hủ” của Tố Hữu thời 1953, khi ông ta cùng các đồng chí khóc “nhà độc tài đỏ” Stalin trong “thi phẩm“Đời đời nhớ Ông”. Đối với một kẻ xa lạ, ở một đất nước mà khi đó có lẽ đại đa số dân Việt chưa biết là ở đâu, chưa thấy có mối liên hệ hay công trạng gì với Việt Nam, nhưng nhà thơ lại rưng rưng: “Yêu biết mấy khi con học nói - Tiếng đầu lòng con gọi Xít-ta-lin”.

Để rồi trong cả “bài thơ”, thi sĩ nhiều khi òa lên một cách hết sức vô duyên: “Ông Stalin ơi, Ông Stalin ơi! - Hỡi ơi, Ông mất! đất trời có không? - Thương cha, thương mẹ, thương chồng - Thương mình thương một, thương Ông thương mười...”. Và đặt vào miệng con trẻ những lời hết sức “chối”: “Con còn bé dại con ơi - Mai sau con nhé trọn đời nhớ Ông!”.

Tệ sùng bái cá nhân lãnh tụ một cách mù quáng, vô độ, phổ biến trong thế giới cộng sản xưa, đã bị chính các đảng cộng sản bài trừ từ vài chục năm nay, coi đó là cội nguồn của những thảm họa dân tộc. Chỉ cần đọc lại bản báo cáo mật của thủ lĩnh cộng sản Nikita Khrushchev đọc tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20 vào cuối tháng 2-1956, là đủ thấy những hậu quả khôn lường của nó.

Dầu sao đi nữa, không thể không đặt câu hỏi: Stalin trên cương vị một trong những đao phủ lớn nhất của lịch sử loài người tất nhiên là đáng lên án, nhưng phải chăng chỉ ông ta mới “đáng trách”? Phải chăng ông là cội nguồn của tất cả những tội ác, mà sau này, một sử gia của Pháp đã nhận định rằng, đau đớn thay, đó là tội ác của một nhà nước nhằm vào và chống lại nhân dân của chính mình?

Câu trả lời là “không”! Bởi lẽ, Stalin đã “tiếp thu” (và tất nhiên, có sự “nâng cao”) tất cả những tệ hại nhất của người thầy Lenin - như “chuyên chính vô sản”, “đấu tranh giai cấp”, thanh trừng và khủng bố, đàn áp tôn giáo, v.v... Tất cả những tội ác đó đã được thực hiện rất triệt để trong thời gian 1917-1922, tức là khi Lenin còn khỏe và mọi hành động của ông đều là rất có ý thức, chứ không phải sự nhầm lẫn đáng tiếc lúc già yếu.

Trên cương vị người sáng lập nhà nước vô sản đầu tiên trên hoàn cầu, suốt đời hoạt động của mình, Lenin trước sau như một ủng hộ sự áp dụng “bạo lực cách mạng” như một phương tiện cần thiết và tiên quyết để giải quyết những mâu thuẫn trong xã hội và chính trị. Sự độc đoán và phi dân chủ đó của ông đã khiến cả những gương mặt lớn, cùng lý tưởng - như Rosa Luxemburg, hay văn hào Maxim Gorky - phải “kêu trời”.

Cũng trong thời gian đó, những phần tử ưu tú, tinh hoa nhất của giới trí thức Nga truyền thống đã bị cưỡng bức rời quê hương - mở đầu cho một “thông lệ” tệ hại ở Liên Xô là chính quyền có thể trục xuất chính công dân mình nếu cảm thấy ai đó có thể không có lợi (hoặc không “hợp”) cho họ. Đấy cũng là tội của Lenin - người rất thấu hiểu sức mạnh của tri thức nên đã rất “mạnh tay” với giới trí thức, với nền văn hóa truyền thống Nga.

Thế nên, rất có thể đối với Đảng Cộng sản Liên Xô, hoặc với cá nhân ai đó thì Lenin (từng) là thần tượng, là “người hiền”, nhưng chỉ cần đọc lại một chút những nghiên cứu lịch sử đứng đắn là biết được “di sản” của Lenin nguy hại như thế nào đối với một phần đáng kể nhân loại. Vậy có nên tiếp tục nhắm mắt nhắm mũi mà sùng bái ông hay không, nhất là nhiều khi chỉ là theo quán tính, theo thói quen mà không hề có óc suy xét?

Hơn thế nữa, liên quan tới quyết định của thành phố nọ, có thể nghĩ xem Lenin đã làm được gì cho Ukraine, mà Ukraine cần giữ tượng đài Lenin ở mọi nơi? Những pho tượng ấy đã được dựng lên - và có thể phù hợp với ý thức hệ bị cưỡng bức của một thời kỳ nào đó, khi dân tộc Ukraine chưa được độc lập - thì bây giờ, sau hai mươi ba năm, nếu thấy nó không còn phù hợp nữa, người ta hạ xuống. Có gì đáng thương khóc?

Những tượng đài Lenin, hồi xưa vốn hiện diện nhan nhản (đa phần do bị bắt buộc) ở các nước XHCN (cũ) tại Đông Âu, thì nay dường như đã bị loại sạch. Có những nơi như tại Hungary, những pho tượng ấy được tập trung lại một nơi để ai có nhu cầu tìm hiểu quá khứ có thể tới thăm viếng. Như thế là văn minh: vị trí của chúng là ở đó, chứ không phải tại các quảng trường, nơi công cộng... bởi công tội phải phân minh.

Cũng như, lịch sử phải được tôn trọng, quá khứ phải được nhìn nhận sòng phẳng. Người dân Đông Âu biết đánh giá hơn ai hết giá trị to lớn của nền văn hóa Nga, vẻ đẹp của đất nước Nga, họ cũng ko có vấn đề gì với dân tộc Nga vốn được mô tả như những con người hiền hậu, tốt bụng và mến khách. Tuy nhiên với những trải nghiệm lịch sử đau đớn, họ quá hiểu cần gìn giữ cái gì, và loại bỏ cái gì...

Việt Nam ta ở xa, chớ nên “dạy khôn” cho họ...

Ghi chú:

(*) Rosa Luxemburg (1871-1919) là nhà cách mạng, triết gia, một yếu nhân của chủ nghĩa Marxist và phong trào xã hội dân chủ Đức. Bà đã dành tác phẩm “Về cuộc cách mạng Nga” (Die Revolution in Russland) viết trong tù ngục để phê phán chủ trương của Lenin - tiêu diệt các đảng phái đối lập và bóp nghẹt dân chủ trong chính nội bộ đảng. Rosa Luxemburg để lại câu nói nổi tiếng, đến giờ vẫn hay được trích dẫn: “Tự do dành riêng cho những ai ủng hộ chính phủ, dành riêng cho thành viên một đảng – cho dù đông đảo đến mấy – cũng không phải là tự do. Tự do, luôn phải là tự do của những người khác chính kiến”.

(**) Có thể xem những phê phán gay gắt của Maxim Gorky (1868-1936) đối với chính phủ mới sau chính biến 1917 trong “Những suy tưởng ko hợp thời”, một tác phẩm được coi là căn bản đối với những ai muốn tìm hiểu về cuộc cách mạng Nga. Sách bị cấm tại Liên Xô trong bảy thập niên (trong khi chính quyền Xô-viết vẫn tung hô Gorky như là nhà văn lớn nhất của trường phái “hiện thực XHCN”) vì nội dung “ko thích hợp”. Nguyên tác Nga ngữ thì kiếm: М. ҐОРЬКИЙ: Несвоеврменные мысли (đăng lần đầu trên tạp chí Литературное обозрение, số 9, 10, 12 năm 1988).

Tác giả bài viết: Người Dân