Nhịp Cầu Thế Giới Online

http://nhipcauthegioi.hu


Kazuo Ishiguro: VĂN HỌC LÀ TÁC ĐỘNG ĐẾN NGƯỜI ĐỌC (Phần 1)

(NCTG) “Nhưng viết văn - theo kinh nghiệm bản thân tôi biết rất rõ - đòi hỏi tập trung toàn bộ con người, không phải là thứ công việc chỉ để làm thêm sau một ngày lao động vất vả. Viết văn là công việc nhọc nhằn, đòi hỏi sự tập trung cao độ”, theo nhà văn Kauzo Ishiguro, tân Khôi nguyên Nobel văn chương 2017.
Kazuo Ishiguro và một tác phẩm của ông, cuốn “Never Let Me Go” - Ảnh: AFP
Lời giới thiệu: Ngày 5-10 vừa qua, Giải Nobel Văn chương 2017 vừa được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao cho nhà văn Kazuo Ishiguro, sinh năm 1954 tại Nagasaki, Nhật Bản, sống ở Anh từ năm sáu tuổi.

Kazuo Ishiguro tốt nghiệp khoa Anh ngữ và Triết học tại Đại học Kent, rồi đi làm nhân viên xã hội ở London. Năm 1980, ông hoàn thành khóa học viết văn ở Đại học Đông Anh, dưới sự chỉ đạo của Malcom Bradbury, tại đây ông làm quen với Angela Carter, người đỡ đầu sau này. Năm 1982, ông nổi tiếng trong cả nước với tiểu thuyết “Pale View of Hills” (tạm dịch: Góc nhìn mờ ảo). Từ đó ông chuyên dành thời gian viết văn.

Năm 1989, Kazuo  Ishiguro cho ra mắt tiểu thuyết “The Remains of the Day” (Tàn ngày), nổi tiếng nhất cho tới nay và nhờ nó ông đoạt Giải Booker. Bản quyền chuyển thể được Harold Pinter mua, và cuối cùng đạo diễn James Ivory dựng phim nhiều lần ứng cử giải Nobel với sự thủ vai chính của Anthony Hopkins và Ema Thomson.

 Năm 1995, ông xuất bản tiểu thuyết “The Unconsoled” (Khôn nguôi), một câu chuyện trinh thám chủ yếu diễn ra ở Thượng Hải có pha trộn những yếu tố nhạc kịch, tiếp theo là tác phẩm “When We were Orphans” (Thời chúng tôi mồ côi) ra mắt năm 2000. Gần đây nhất là tiểu thuyết giàu chất nhạc, âm hưởng buồn “Never Let Me Go” (Mãi đừng xa tôi) ấn hành năm 2005.

Kazuo Ishiguro hiện sống trong khu nhà vườn cạnh London cùng vợ là Lorna và con gái Naomi. Năm 2005, ông đã hoàn thành kịch bản dài đầu tiên, được quay thành phim “The white Countess” (Nữ bá tước trắng) do Isabella Rossellini đóng vai chính.

Nhân dịp này, để bạn đọc yêu văn chương có điều kiện tìm hiểu thêm về nhà văn Kazuo Ishiguro, được sự đồng ý của dịch giả Giáp Văn Chung, NCTG xin đăng tải bài phỏng vấn ông do nhà báo, BTV truyền hình Hungary Lévai Balázs thực hiện năm 2006, cách đây hơn một thập kỷ. Nhan đề do NCTG tạm đặt.
 
Một số tác phẩm của Kazuo Ishiguro - Ảnh: time.com
Một số tác phẩm của Kazuo Ishiguro - Ảnh: time.com

- Bạn bè ông, theo lời đồn đại, thường gọi ông là samurai tỉnh lẻ, nhưng tôi đọc thấy trong đó có chút ít sự thật, vì gia đình ông có gốc gác thuộc một dòng họ samurai cổ xưa ở Nhật. Có đúng vậy không hay chỉ là lời đồn thổi?

Xét cho cùng, đúng là như vậy, nhưng không nên gán cho nó một ý nghĩa quá quan trọng. Tổ tiên tôi không phải là hậu duệ của một gia đình quí tộc nổi tiếng đâu. Cho phép tôi kể lại một cách sơ lược chuyện liên quan đến những samurai này. Chắc ông cũng biết về cơ bản người Nhật có một xã hội phân tầng giai cấp rất chặt chẽ, xét về mặt cấu trúc nó không khác các xã hội Phương Tây thời trung cổ bao nhiêu. Có tầng lớp quí tộc, tầng lớp trung lưu, những thương gia, và tầng lớp hạ lưu, những người nông dân. Và bên cạnh trật tự tổ chức đó tồn tại một giai tầng đặc biệt, đó là các chiến binh, họ khác hẳn những tầng lớp kể trên. Khó tìm thấy một giai tầng tương tự như vậy ở Phương Tây. Vì nước Nhật trải qua nhiều thế kỷ nội chiến, đã hình thành những đạo quân riêng của những chiến binh samurai. Và tới tận hôm nay vẫn còn khá nhiều những người bảo thủ, hoài cổ, họ rất tự hào vì nguồn gốc cổ xưa, quí phái của mình. Mặc dù trong thời sống thường nhật, điều này hoàn toàn không có ý nghĩa gì. Sự thật là có một vị tổ nào đó của tôi đã từng chiến đấu như một samurai, và gia đình tôi còn lưu giữ những hình ảnh mà thời tôi còn bé chúng vẫn được trang trí giữa những giáp trụ và thanh kiếm từ đời xưa để lại. Về phần mình, tôi không thích cái mốt hiện tại của hình tượng này, vì núp dưới cái vỏ mặt nạ của hệ tư tưởng samurai cao thượng, người ta đã phạm bao nhiêu tội ác bẩn thỉu, nhưng đúng là không thể hoài nghi: nó có một mặt độc đáo, tích cực của nó. Cụ thể là các samurai không bao giờ quan tâm đến tiền bạc, vì họ cho rằng tiền sẽ làm nhơ bẩn bàn tay họ. Nghĩa là trong cái thế giới quan lỗi thời đó vẫn có một chút gì dễ cảm thông.

- Ông có thể kể một chút gì đó về thuở ban đầu không? Nếu đã không trở thành một samurai, phải chăng ông luôn chuẩn bị để trở thành một nhà văn?

Thú thật, tôi chưa bao giờ có những dự định lớn, như một ngày nào đó sẽ trở thành nhà văn. Ở tuổi teen, những ca-nhạc sĩ Mỹ nổi tiếng như Bob Dylan và Leonard Cohen là thần tượng của tôi, và tôi cũng nghĩ mình là một nghệ sĩ lớn, có lẽ tự đáy tâm hồn tôi muốn trở thành ngôi sao nhạc rock. Cuối những năm 60, đầu những năm 70 tôi đang ở tuổi thiếu niên, đó là thời của các ca sĩ hát những ca khúc tự sáng tác. Chắc ông cũng nhớ, họ là những người một mình một ghita đứng trên sân khấu, và với vẻ cực nghiêm trang họ nói về những ý tưởng lớn, và hát những ca từ gần giống những bài thơ. Tôi cũng coi mình là người như thế. Tôi rất mê âm nhạc, thậm chí bản thân tôi cũng chơi hai loại nhạc cụ.

- Đó là điều tôi không bao giờ nghĩ về ông. Thế ông đã chơi những nhạc cụ gì vậy?

Guitar và dương cầm. Tôi từng mơ ước sẽ trở thành một trong những nhạc sĩ lớn trên thế giới, bằng âm nhạc đến được trái tim mọi người. Tôi đã viết trên một trăm ca khúc, và liên tục gõ cửa các nhà phát hành đĩa, mời chào khắp nơi những bản nhạc ghi thử. Việc này kéo dài mãi tới năm tôi hai hai, hai ba tuổi.

- Thật may mắn cho độc giả, cuối cùng ông đã không trở thành ngôi sao nhạc rock. Thế chuyện viết văn đã bắt đầu thế nào?

Tôi có một khiếm khuyết nghiêm trọng, đó là không có giọng hát. Đồng thời khi nghe những thần tượng của mình hát, tôi bắt đầu quan tâm đến lời ca và nghĩ làm thế nào có thể sử dụng từ ngữ một cách nghệ thuật. Điều quan trọng với tôi là tạo ra những thế giới mới qua âm nhạc và ca từ. Thực chất, tôi đã viết văn một cách vô thức ngay khi sáng tác nhạc, trong thời kỳ đầu ấy, trong tôi đã hình thành một cái gì đó. Chỉ có điều khi đó tôi còn mang khát vọng cháy bỏng muốn trở thành người viết nhạc và ca từ. Nhiều người đã trải qua giai đoạn tương tự như vậy. Dần dần tôi mới vỡ lẽ: số phận không muốn mình trở thành ngôi sao nhạc rock. Như vậy tôi không có hoài bão, hay sự thôi thúc phải trở thành nhà văn như một vài đồng nghiệp khác, tôi không hề suốt đời cố gắng làm chuyện đó. Ông biết đấy. Ta gõ một cánh cửa, nhưng nó không mở ra, rồi bỗng nhiên một cánh cửa khác bật mở. Với tôi sự việc đã diễn ra như thế. Thay cho những ca từ, tôi bắt đầu viết truyện ngắn, và xin vào học một khóa dạy sáng tác ở đại học. Đó là khóa học sau đại học của tôi, lúc đó tôi khoảng hai lăm tuổi, và sau khóa học này tôi bắt đầu gửi đăng các sáng tác ngay. Những truyện ngắn đầu tay của tôi lập tức được đăng trên các tập san. Tôi có may mắn cực lớn: chỉ sau chưa đầy nửa năm, tôi đã ký hợp đồng với nhà xuất bản mà tới nay vẫn in sách của tôi, đó là một hãng có tên tuổi ở Anh, hãng Faber & Faber. Họ ký hợp đồng in cuốn tiểu thuyết tôi đang viết dở, lại còn chi một khoản tạm ứng nhỏ.

- Và từ đó ông bỏ hẳn viết ca từ?

Điều này cũng rất lạ. Nhiều năm trước đây khi mới bắt đầu viết văn, thì tôi bỏ hẳn. Tôi cảm thấy tất cả những lời bài hát tôi viết, một lúc nào đó, đã chuyển sang văn học. Bây giờ nói về chuyện này tôi có thể tự hào nói rằng mới đây tôi lại bắt đầu viết ca từ. Một số ban nhạc jazz nổi tiếng mời tôi viết lời cho họ, theo họ lời tôi viết có thể hợp với ca khúc của họ. Tôi cảm thấy đây là công việc rất lý thú, và đã nhận lời, nhưng tất nhiên tôi không chuyển nghề đâu. Ngày nay, viết ca từ chỉ còn là thú vui thôi.

- Ông có nhắc đến khóa học sáng tác. Ý kiến của ông về khả năng có thể dạy viết văn thế nào? Ông có cho rằng nhờ khóa dạy sáng tác, bất kỳ ai cũng có thể trở thành nhà văn không?

Câu hỏi này bao giờ tôi cũng trả lời rất thận trọng. Nếu nhìn một cách khách quan thì tôi hoài nghi tất cả những kiểu trường dạy viết văn. Một mặt chúng có lợi cho các trường đại học, vì một khóa học như thế cuốn hút nhiều người, mang lại nhiều tiền cho họ. Tuy nhiên tôi có những quan ngại, không chắc nó có giúp gì nhiều cho những người không có chút tài năng nào. Nhưng đối với tôi nó hết sức hữu ích. Vào thời gian tôi theo học, đấy là cơ quan duy nhất cấp bằng cao học sau khóa đào tạo. Thời đó học sáng tác còn là một cái gì rất mới, người ta nhìn chúng tôi rất lạ, họ coi chúng tôi như những sinh vật cảnh. Khóa học cũng chỉ được phép mở nhờ có hai nhà văn, nhà giáo xuất sắc đứng tên: Sir Angus Wilson và Malcolm Bradbury.

- Khóa đào tạo hữu ích ở chỗ nào, nó đã cung cấp thêm cho ông những gì?

Đối với tôi, điều có ích đầu tiên và quan trọng nhất là thời gian. Tôi có 12 tháng để làm việc và chỉ tập trung vào viết văn. Khó khăn lớn nhất của những cây bút trẻ là khi mới khởi nghiệp họ không thể tập trung hết thời gian để viết. Viết trong khi còn phải làm hàng ngàn việc khác để kiếm sống, không thể dồn hết tâm lực vào ngồi viết, là việc làm cực kỳ nan giải. Trong tình huống như thế thật khó mà suy nghĩ cho đến nơi đến chốn xem có đúng viết văn là nhiệm vụ của mình không, mình sinh ra có phải để viết hay không. Không có thời gian để làm điều đó. Một tình trạng rất nghịch lý, nhưng ta chỉ có thời gian suy nghĩ về việc này khi đã thực sự trở thành nhà văn. 

Nếu theo học khóa sáng tác, với tư cách là học sinh, anh không có việc gì khác hơn là tập trung vào viết. Tất nhiên lúc đầu nhiều khi ta cảm thấy như mình có lỗi, vì lẽ ra phải làm việc khác thì mình chỉ chăm chú vào viết. Nhưng viết văn - theo kinh nghiệm bản thân tôi biết rất rõ - đòi hỏi tập trung toàn bộ con người, không phải là thứ công việc chỉ để làm thêm sau một ngày lao động vất vả. Viết văn là công việc nhọc nhằn, đòi hỏi sự tập trung cao độ. Một bài học quan trọng khác là, lần đầu tiên trong đời, các sáng tác của tôi được những người khác đánh giá. Trong thời kỳ sáng tác ca khúc tôi không có điều kiện làm việc đó. Và không chỉ có các giáo sư bình xét chúng, mà cả các bạn học cùng khóa cũng trao đổi về những gì đã viết. Việc này giống như một kiểu thử quần áo trong văn chương, chính ở đây tôi đã thấy những nhà phê bình phản ứng như thế nào với sáng tác của mình. Đó là một trải nghiệm rất quan trong đối với tôi: thấy người khác đọc sách của mình và thấy người ngoài tiếp cân chúng như thế nào.

- Văn nghiệp của ông đã bắt đầu như thế nào, khi ông bước ra thế giới rộng lớn? Vì nguồn gốc của mình chắc hẳn ông phải đối diện với sự lựa chọn, ông sinh ra trong một nền văn hóa khác, nhưng từ nhỏ lại sống trong môi trường Anh. Việc làm rõ tổ quốc đối với ông khó khăn tới mức nào?

Trước đây nhiều khi tôi cảm thấy như mình đang buộc phải sắm vai một phóng viên ngoại quốc, phải kể cho người London biết nước Nhật là gì. Như người có sứ mạng giải thích Phương Đông cho Phương Tây. Hai tiểu thuyết đầu tay của tôi đúng là nói về nước Nhật, hay về Nagasaki, thời kỳ sau Đệ nhị Thế chiến. Điều này có những lý do tự sự, tôi phải tự giải quyết những vấn đề như câu hỏi về bản sắc, hay như tôi là đứa trẻ sống sót của chiến tranh thế giới tới mức nào, của thế hệ đã trải qua suốt thời kỳ mà người ta gọi là chủ nghĩa phát-xít Nhật. Nhưng sau đó, dần dần tôi đã phải làm sáng tỏ một loạt câu hỏi về quan hệ của tôi với Nhật Bản và về những truyền thống gắn bó tôi với đất nước. Tới nay tôi đã sống quá lâu ở Phương Tây, cuộc đời tôi đã gắn bó tới mức tôi cảm thấy rất thoải mái ở London, mà không cần phải ngày nào cũng nghĩ tới nước Nhật. Thậm chí, hiện nay những đề tài từng đeo đẳng tôi trước đây như Phương Đông-Phương Tây, bản sắc lai tạp... ngày càng lùi xa, và Nhật Bản cũng đã tìm thấy vị trí của nó trong tôi.

- Thế ở Nhật người ta nhìn nhận ông thế nào? Ông có biết họ coi ông là nhà văn Nhật hay nhà văn nước ngoài?

Có một dấu hiệu không thể nhầm lẫn. Trên bìa sách tên của các tác giả Nhật Bản được viết với chữ viết Nhật truyền thống, kiểu kanji, giống chữ tượng hình của Trung Hoa. Tên các tác giả ngoài nước được viết theo lối phiên âm ra abc, kiểu katana, dưới dạng fonetic. Nếu một ai đó lạc vào một hiệu sách ở Nhật, thì có thể biết ngay một cuốn sách nào đó là của nhà văn Nhật hay của tác giả Tây Phương. Tên tôi được viết nhất quán theo kiểu katana, nghĩa là các nhà xuất bản chính thức coi tôi là nhà văn nước ngoài. Tuy nhiên khi về Nhật, trong những dịp ra mắt sách, gặp gỡ độc giả, qua các câu hỏi tôi cảm thấy từ nột tâm, dù thế nào, họ vẫn coi tôi là người Nhật, vì tôi mang trong mình dòng máu Nhật.

- Trong những năm 80, văn học Anh rơi vào một cuộc khủng khoảng tính cách (indentity), ngày càng nhiều người nhận ra cần có cách nhìn mới, cách nhìn có thể hỗ trợ việc thiết lập lại sự cân bằng đã bị phá vỡ giữa đời sống xã hội và văn học. Ông thấy điều gì đã thay đổi từ khi xuất hiện một thế hệ nhà văn, trong đó ông cũng là một thành viên? 

Trong nhiều thế kỷ người Anh coi mình là những thành viên của một đế chế lớn, nhưng sau Đệ nhị Thế chiến, đế chế này bỗng nhiên bị thu hẹp, và nước Anh chỉ còn là một quốc gia nhỏ bên lề Châu Âu. Nghĩa là đã sinh ra một tâm thế mới, hướng ra thế giới bên ngoài. Văn hóa đã thay đổi về mặt này, nó bỗng trở nên nhạy cảm và hiếu kỳ trước bản chất của xã hội. Nước Anh bỗng nhiên trở thành một xã hội đa văn hóa, tất nhiên chúng tôi cần thông tin, cần một nền văn học minh giải thực chất chúng tôi là ai. Người ta bắt đầu tìm những lời giải đáp, tìm đến những nhà văn đưa ra cho họ những câu trả lời. Có lẽ họ hy vọng nếu đọc Rushdie hay Naipaul, họ sẽ hiểu điều gì đã xảy ra, tại sao một cộng đồng ít nhiều thuần Anh bỗng chốc trở nên mang tính quốc tế, một thế giới đa cư dân (cosmopolite). Và tất nhiên sự quan tâm tới thế giới bên ngoài bỗng nhiên tăng lên. Người thuộc Vương quốc Anh phải gồng mình lên để hiểu các nền văn hóa khác.

- Tình trạng đó thực ra là một cơ may cho ông, vì ông không rơi vào một khoảng trống, những tác giả vừa nhắc tới đã khai phá con đường phía trước ông. Ông tự cho mình thuộc khuynh hương này tới mức độ nào?

Theo một ý nghĩa nào đó đúng là tôi may mắn trong sự nghiệp. Tôi bắt đầu in ấn đúng vào lúc văn học, thậm chí toàn bộ văn hóa nói chung rất muốn tìm hiểu thế giới mới bên ngoài. Nhưng đồng thời tôi cũng cần phải thưa rằng những tác phẩm của tôi không hoàn toàn đồng nhất với khuynh hướng hậu thuộc địa kiểu Naipaul, Rushdie. Trái ngược với tôi, tới nay họ vẫn nói rất nhiều về quan hệ giữa hai thế giới, về quá trình phi thực dân hóa hoặc về hiện trạng thuộc địa của ngôn ngữ. Rushdie là một ví dụ điển hình, một mình ông có khả năng pha trộn những yếu tố ngôn ngữ thuộc địa khác nhau với Anh ngữ. Dễ hiểu là tôi không có những truyền thống thuộc địa như thế, vì Nhật Bản chưa bao giờ là một thuộc địa, và văn hóa của nó cũng khác. Những tác phẩm của tôi, ai mà biết tại sao, thường được người ta so sánh với các tác phẩm của Conrad.

- Nhiều lần ông nói, mặc dù hai tiểu thuyết đầu tiên cũng nói về đề tài tương tự như cuốn đã mang lại thành công thế giới “Tàn ngày”, nhưng chỉ có tác phẩm này là thành công, còn hai cuốn đầu được coi là quá Nhật Bản. Trên cơ sở nào ông nghĩ như vậy?

Khi viết hai cuốn tiểu thuyết đầu tiên, tôi khá thất vọng. Cả hai câu chuyện đều diễn ra ở Nhật Bản, nhưng thực chất trong đó tôi muốn đưa ra những kết luận phổ quát về con người. Tôi muốn nói về việc con người có thể nhìn nhận lại những quyết định sai lầm của họ trong quá khứ như thế nào. Tôi muốn khảo sát xem con người thay đổi ra sao dưới áp lực to lớn của xã hội. Vì như thường thấy, nếu không phải là một tính cách nổi trội đặc biệt, thì con người thường đi theo bầy đàn một cách vô thức. Và chỉ sau này khi nhìn lại ta mới nhận ra mình đã dự phần vào chủ nghĩa phát-xít hay chủ nghĩa cộng sản. Đồng thời, tất nhiên ta không nên quá khắt khe với bản thân. Nhưng sinh linh bình thường rất khó tách khỏi dòng chảy của lịch sử. Chỉ có rất ít người đặc biệt mới có khả năng làm việc đó, nhưng đa phần con người không là như thế. Tôi đã đưa hiện tượng này vào tầm ngắm, trong môi trường Nhật Bản. Nhưng rất tiếc tôi phải nhận ra rằng độc giả luôn nghĩ đó là những cuốn sách Nhật Bản, và họ nhìn nhận chúng như chúng chỉ nói về xã hội Nhật và lịch sử nước Nhật, điều này làm tôi - với tư cách nhà văn - khá thất vọng. Tôi nghĩ, nếu khoác cho những đề tài này một trang phục Anh, có thể người ta sẽ nhận ra ý tưởng của tôi. Đó là một phép ẩn dụ phổ quát, một trạng thái phổ quát của con người. Với cuốn Tàn ngày, đã xảy ra chuyện tương tự như thế, nó rất giống hai cuốn - có cốt truyện diễn ra ở Nhật - trước đó, chỉ khác bối cảnh là nước Anh.

- Ông đã nhắc tới tầm quan trọng của sự nhìn nhận lại. Nếu cần phải định tính những tiểu thuyết của ông thì chắc chắn tôi sẽ nêu bật tầm quan trọng của quá khứ, những kỷ niệm và hồi ức. Ông nghĩ sao về ý kiến này?

Có thể ông nói đúng, đây là mô-tip quan trọng nhất trong những tác phẩm của tôi. Vì thế tôi thường để người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, cách kể chuyện như thế dễ dàng gợi lại không khí và diễn biến của sự hồi tưởng. Nhưng hình thức này còn cho khả năng thể hiện những chủ đề quan trọng khác, như sự bóp méo những sự thật trong quá khứ hay vấn đề xử lý thời gian. Tôi luôn luôn thấy hứng thú bởi mỗi ngày chúng ta càng đào sâu vào quá khứ và hồi ức của các nhân vật của tôi. 

- Thế nhưng, sự mô tả nước Anh trong “Tàn ngày” hơi kỳ lạ, người đọc như rơi vào một tiểu thuyết thế kỷ trước (ý nói thế kỷ 19 - ND). Ông muốn hòa nhập vào truyền thống văn học Anh tới mức nào? Liệu tiểu thuyết của ông có đưa ra một hình ảnh quá stereotype (khuôn mẫu, sáo rỗng) về đời sống quý tộc Anh?

Sao lại không, tuyệt đối đúng như thế. Tôi rất quan tâm tới những stereotype. Không phải tôi muốn viết một tiểu thuyết hiện thực cổ điển với “Tàn ngày”. Tôi để ý thấy nước Anh có một (hình ảnh) huyền thoại (mythe). Từ Achentina đến Sri Lanka trong mỗi người đều tồn tại một hình ảnh sâu đậm về nước Anh, dù trong đời họ chưa hề tới đó, nhưng họ vẫn có một stereotype về nó. Nó giống như nước Anh của những tạp chí du lịch. Như ông biết đấy: những người phục dịch, những tòa nhà lộng lẫy, những khu vườn lớn, những đức ông lịch lãm cổ thắt nơ.

- Cũng như trong những tiểu thuyết của P.G. Wodehouse.

Đúng, chính xác! Wodehouse đã giúp tôi rất nhiều. Tóm lại, tôi đã lấy cái hình ảnh stereotype ấy, dùng vào những mục đích của mình. Trong đó có một chút Wodhouse, một chút Henry James, v.v... Vì cái hình ảnh đó sống trong tất cả mọi người, đúng vậy không. Cũng giống như những phim cao bồi và huyền thoại Miền Tây (Western), có trong trái tim chúng ta từ khi còn nhỏ. Tôi quan tân đến việc mình sử dụng huyền thoại như thế nào. Tôi không muốn khắc họa bức chân dung lịch sử xã hội trong cuốn sách, mà muốn miêu tả một cái gì đó giống như câu chuyện Miền Tây. Quan trọng nhất đối với tôi là nhân vật quản gia. Ông thử nghĩ xem, nếu tôi nói một quản gia người Anh, thì trên thế giới ai cũng biết điều gì đó. Đa số chúng ta chưa bao giờ gặp một người như thế, nhưng vẫn có một hình ảnh về nhân vật này.

Xem Phần 2 của bài phỏng vấn.

Tác giả bài viết: Giáp Văn Chung chuyển ngữ từ nguyên bản tiếng Hungary - Còn tiếp