Truyện ngắn của Nguyễn Thị Hậu: BÊN NÀY THÌ VUI HƠN BÊN KIA
- Thứ hai - 13/08/2018 06:39
- In ra
- Đóng cửa sổ này
(NCTG) “Ông bước đến ôm siết đôi vai chị đang run lên, rồi gần như ông đẩy chị ra khỏi vòng tay mình và ngồi phịch xuống ghế, quay đầu nhìn ra cửa sổ. Ngoài đó... một chiếc xe hơi vừa lướt qua. Trưa tháng Bảy nắng đến nhòa mắt...”.
Trên con đường dẫn ra ngoại ô của thành phố P. có một đoạn đường mà bên kia là nhà tù còn bên này có một khách sạn nhỏ và quán cà phê.
Nhà tù ngăn cách với bên ngoài bằng bức tường gạch không cao lắm nhưng chắc chắn, phía trên không có những vòng thép gai hay mảnh thủy tinh như thường thấy ở nhiều nhà tù khác. Góc hai bức tường gặp nhau là một “cổng giả” hình vòm cuốn, phía trên có dòng chữ “Nhà tù trung tâm” bằng kiểu chữ nghiêm ngắn màu xám, khác biệt duy nhất trên bức tường dài màu nâu sẫm cho biết chức năng của các tòa nhà phía trong trông giống như một chung cư bình dân.
Khách sạn là tòa nhà cũ có 3 tầng, những cửa sổ bằng gỗ sơn màu xanh cũ kỹ nhưng sạch sẽ, luôn rộng mở, cửa kính trong veo phất phơ rèm trắng, chậu hoa tươi tắn trên bệ cửa sổ. Tầng trệt là quán cà phê cũng là sảnh khách sạn. Dưới bảng hiệu là dòng chữ trình bày kiểu cọ vui mắt “Bên này thì vui hơn bên kia”. Ai đi qua nhìn thấy mấy chữ này cũng phải mỉm cười, ờ thì đúng rồi... Không biết nhà tù và quán cà phê cái nào có trước, chỉ biết là đều có từ khi nơi này còn là một làng nhỏ giữa cánh rừng thưa, xe ngựa đi gần ngày đường mới tới trung tâm thành phố. Nhưng khách sạn thì chỉ có khi một sân bay được xây gần đó.
Dân cư quanh vùng đã quen với cổng nhà tù có con đường nhỏ thỉnh thoảng vài chiếc xe bịt bùng ra vào. Nhìn vào chỉ thấy barie trạm gác, vườn hoa và hàng cây cao vút, xa hơn là những ô cửa sổ của vài dãy nhà cao ba bốn tầng mỗi tối sáng đèn đến khoảng 9 giờ thì đồng loạt tắt. Xung quanh, bên ngoài bức tường là con đường nhỏ xanh mát, hàng ngày người lớn trẻ nhỏ vẫn đi lại trên vỉa hè, chiều tối dưới lòng đường là hàng dài xe hơi đậu qua đêm. Thỉnh thoảng có một nhóm hoặc vài người mặc thường phục từ phía trong đi ra. Qua khỏi cổng họ ôm hôn nhau và chia tay. Có người được người thân đến đón bằng xe hơi nhưng phần lớn bọn họ đi đến bến xe buýt gần đó hoặc đi xa hơn đến ga metro, nhưng họ tách ra đi một mình, lơ đãng ngắm nhìn đường phố hoặc cắm cúi đi nhanh. Sau vài phút lao xao nơi này trở lại yên tĩnh.
Một buổi sáng có một người từ nhà tù đi ra, đứng tần ngần ở cổng rồi chậm rãi đi ngược qua bên kia đường. Đó là người đàn ông nhìn qua khó đoán tuổi, vóc dáng cao ráo, mái tóc bạc nhưng gương mặt còn khá tinh nhanh, có lẽ ông chưa đến tuổi 60. Trong bộ quần áo vừa vặn, còn mới, là mode của khoảng mươi năm trước, ông bước vào quán cà phê bằng bước chân nhẹ nhàng có gì đấy đầy cẩn trọng. Đến bên chiếc bàn cạnh cửa sổ, trong tích tắc ông quyết định ngồi xuống chiếc ghế nhìn về phía cửa ra vào. Ông gọi một tách cà phê, mở tờ báo ai đó để trên bàn ra đọc... Khi cà phê được mang đến, ông ngẩng lên nhìn quanh rồi dừng lại ở chiếc đồng hồ treo phía sau quầy hàng.
Trên tay ông không đeo đồng hồ như nhiều người đàn ông khác, cũng không thấy ông có điện thoại như mọi người bây giờ. Ông chăm chú nhìn chiếc đồng hồ cổ đang tích tắc với con lắc đong đưa đều đặn, vẻ mặt thoáng buồn... Chậm rãi uống tách cà phê, ông cầm miếng đường nhỏ ngắm nghía rồi bỏ vào miệng, ngậm một chút và nhai ngon lành như một cậu bé. Một nụ cười thoáng qua trông ông trẻ hẳn ra. Tách cà phê đã hết, tờ báo cũng đã được đọc đi đọc lại... Hình như đã quen với những người khách như thế, người phục vụ mang đến một tờ tạp chí và chai nước lạnh. Ông khẽ cám ơn và lại chăm chú đọc...
Thời gian chậm chạp trôi qua... quán cà phê có khách rồi lại vắng khách. Người đàn ông vẫn ngồi đấy, đọc tờ tạp chí mà không ngẩng lên lần nào như không muốn ai nhìn thấy mình. Khi chiếc đồng hồ buông tiếng chuông báo 12 giờ người khách giật mình dợm đứng dậy, nhưng cũng rất nhanh ông sựng lại, ngồi yên trên ghế, hai tay ông từ từ ôm lấy mặt như bị một cơn choáng bất ngờ. Đây là tiếng chuông ông đã chờ đợi nhiều năm, vì ngay lúc đó từ cửa quán cà phê một người phụ nữ bước vào.
Người phụ nữ đứng tuổi thân hình mảnh mai, nước da hơi khô phủ một lớp phấn mỏng để che bớt gương mặt xanh xao. Mái tóc xoăn xoăn trước trán, đôi mắt to đượm buồn, chị còn giữ được nét đẹp của thời thanh xuân. Chị bước nhanh về phía ông gần như nhận ngay ra ông, và lao vào vòng tay ông khi ấy vừa kịp đứng lên.
Họ ngồi đối diện, im lặng, tay đan vào nhau. Ông hôn những ngón tay gầy của chị. Còn chị áp mãi bàn tay ông vào đôi má nóng bừng như đang sốt của mình... Rất lâu, họ vẫn không nói gì. Đồng hồ vội vã điểm chuông. Chị chợt tỉnh, chậm rãi đứng lên như hết hơi hết sức... Ông bước đến ôm siết đôi vai chị đang run lên, rồi gần như ông đẩy chị ra khỏi vòng tay mình và ngồi phịch xuống ghế, quay đầu nhìn ra cửa sổ. Ngoài đó... một chiếc xe hơi vừa lướt qua. Trưa tháng Bảy nắng đến nhòa mắt...
Đến lúc cũng phải đi thôi. Qua quầy hàng ông nghiêng mình cám ơn một cách trịnh trọng và tự nhiên như một quý ông... Đứng dưới bảng hiệu quán cà phê “Bên này thì vui hơn bên kia” ông nhìn sang “Nhà tù trung tâm”. Có lẽ phải ngược lại mới đúng. “Bên kia” là nơi ông đã gửi lại gần cả cuộc đời nhưng “bên này” lại là nơi tuổi trẻ vừa rời xa ông, mãi mãi...
Nhà tù ngăn cách với bên ngoài bằng bức tường gạch không cao lắm nhưng chắc chắn, phía trên không có những vòng thép gai hay mảnh thủy tinh như thường thấy ở nhiều nhà tù khác. Góc hai bức tường gặp nhau là một “cổng giả” hình vòm cuốn, phía trên có dòng chữ “Nhà tù trung tâm” bằng kiểu chữ nghiêm ngắn màu xám, khác biệt duy nhất trên bức tường dài màu nâu sẫm cho biết chức năng của các tòa nhà phía trong trông giống như một chung cư bình dân.
Khách sạn là tòa nhà cũ có 3 tầng, những cửa sổ bằng gỗ sơn màu xanh cũ kỹ nhưng sạch sẽ, luôn rộng mở, cửa kính trong veo phất phơ rèm trắng, chậu hoa tươi tắn trên bệ cửa sổ. Tầng trệt là quán cà phê cũng là sảnh khách sạn. Dưới bảng hiệu là dòng chữ trình bày kiểu cọ vui mắt “Bên này thì vui hơn bên kia”. Ai đi qua nhìn thấy mấy chữ này cũng phải mỉm cười, ờ thì đúng rồi... Không biết nhà tù và quán cà phê cái nào có trước, chỉ biết là đều có từ khi nơi này còn là một làng nhỏ giữa cánh rừng thưa, xe ngựa đi gần ngày đường mới tới trung tâm thành phố. Nhưng khách sạn thì chỉ có khi một sân bay được xây gần đó.
Dân cư quanh vùng đã quen với cổng nhà tù có con đường nhỏ thỉnh thoảng vài chiếc xe bịt bùng ra vào. Nhìn vào chỉ thấy barie trạm gác, vườn hoa và hàng cây cao vút, xa hơn là những ô cửa sổ của vài dãy nhà cao ba bốn tầng mỗi tối sáng đèn đến khoảng 9 giờ thì đồng loạt tắt. Xung quanh, bên ngoài bức tường là con đường nhỏ xanh mát, hàng ngày người lớn trẻ nhỏ vẫn đi lại trên vỉa hè, chiều tối dưới lòng đường là hàng dài xe hơi đậu qua đêm. Thỉnh thoảng có một nhóm hoặc vài người mặc thường phục từ phía trong đi ra. Qua khỏi cổng họ ôm hôn nhau và chia tay. Có người được người thân đến đón bằng xe hơi nhưng phần lớn bọn họ đi đến bến xe buýt gần đó hoặc đi xa hơn đến ga metro, nhưng họ tách ra đi một mình, lơ đãng ngắm nhìn đường phố hoặc cắm cúi đi nhanh. Sau vài phút lao xao nơi này trở lại yên tĩnh.
Một buổi sáng có một người từ nhà tù đi ra, đứng tần ngần ở cổng rồi chậm rãi đi ngược qua bên kia đường. Đó là người đàn ông nhìn qua khó đoán tuổi, vóc dáng cao ráo, mái tóc bạc nhưng gương mặt còn khá tinh nhanh, có lẽ ông chưa đến tuổi 60. Trong bộ quần áo vừa vặn, còn mới, là mode của khoảng mươi năm trước, ông bước vào quán cà phê bằng bước chân nhẹ nhàng có gì đấy đầy cẩn trọng. Đến bên chiếc bàn cạnh cửa sổ, trong tích tắc ông quyết định ngồi xuống chiếc ghế nhìn về phía cửa ra vào. Ông gọi một tách cà phê, mở tờ báo ai đó để trên bàn ra đọc... Khi cà phê được mang đến, ông ngẩng lên nhìn quanh rồi dừng lại ở chiếc đồng hồ treo phía sau quầy hàng.
Trên tay ông không đeo đồng hồ như nhiều người đàn ông khác, cũng không thấy ông có điện thoại như mọi người bây giờ. Ông chăm chú nhìn chiếc đồng hồ cổ đang tích tắc với con lắc đong đưa đều đặn, vẻ mặt thoáng buồn... Chậm rãi uống tách cà phê, ông cầm miếng đường nhỏ ngắm nghía rồi bỏ vào miệng, ngậm một chút và nhai ngon lành như một cậu bé. Một nụ cười thoáng qua trông ông trẻ hẳn ra. Tách cà phê đã hết, tờ báo cũng đã được đọc đi đọc lại... Hình như đã quen với những người khách như thế, người phục vụ mang đến một tờ tạp chí và chai nước lạnh. Ông khẽ cám ơn và lại chăm chú đọc...
Thời gian chậm chạp trôi qua... quán cà phê có khách rồi lại vắng khách. Người đàn ông vẫn ngồi đấy, đọc tờ tạp chí mà không ngẩng lên lần nào như không muốn ai nhìn thấy mình. Khi chiếc đồng hồ buông tiếng chuông báo 12 giờ người khách giật mình dợm đứng dậy, nhưng cũng rất nhanh ông sựng lại, ngồi yên trên ghế, hai tay ông từ từ ôm lấy mặt như bị một cơn choáng bất ngờ. Đây là tiếng chuông ông đã chờ đợi nhiều năm, vì ngay lúc đó từ cửa quán cà phê một người phụ nữ bước vào.
Người phụ nữ đứng tuổi thân hình mảnh mai, nước da hơi khô phủ một lớp phấn mỏng để che bớt gương mặt xanh xao. Mái tóc xoăn xoăn trước trán, đôi mắt to đượm buồn, chị còn giữ được nét đẹp của thời thanh xuân. Chị bước nhanh về phía ông gần như nhận ngay ra ông, và lao vào vòng tay ông khi ấy vừa kịp đứng lên.
Họ ngồi đối diện, im lặng, tay đan vào nhau. Ông hôn những ngón tay gầy của chị. Còn chị áp mãi bàn tay ông vào đôi má nóng bừng như đang sốt của mình... Rất lâu, họ vẫn không nói gì. Đồng hồ vội vã điểm chuông. Chị chợt tỉnh, chậm rãi đứng lên như hết hơi hết sức... Ông bước đến ôm siết đôi vai chị đang run lên, rồi gần như ông đẩy chị ra khỏi vòng tay mình và ngồi phịch xuống ghế, quay đầu nhìn ra cửa sổ. Ngoài đó... một chiếc xe hơi vừa lướt qua. Trưa tháng Bảy nắng đến nhòa mắt...
Đến lúc cũng phải đi thôi. Qua quầy hàng ông nghiêng mình cám ơn một cách trịnh trọng và tự nhiên như một quý ông... Đứng dưới bảng hiệu quán cà phê “Bên này thì vui hơn bên kia” ông nhìn sang “Nhà tù trung tâm”. Có lẽ phải ngược lại mới đúng. “Bên kia” là nơi ông đã gửi lại gần cả cuộc đời nhưng “bên này” lại là nơi tuổi trẻ vừa rời xa ông, mãi mãi...