Nhịp Cầu Thế Giới Online

http://nhipcauthegioi.hu


Truyện ngắn của Doris Lessing (Nobel Văn chương 2007): CHUYỆN KỂ VỀ HAI CON CHÓ (5)

(NCTG) Cả bọn đi vào Lũng Đại Khê Thủy. Còn có Lũng Lũ Lớn nữa cơ, nhưng cái lũng ấy nằm cách điền trang quãng độ năm dặm và theo hướng khác.

Nơi ấy, mặt đất bị thiêu đến trụi trần rỉ sét, những ao hồ thì thường cạn khô rất sớm. Chúng tôi chẳng khoái đến đó. Nhưng muốn tới được Lũng Đại Khê Thủy tuyệt đẹp thì phải cắt ngang những bụi cây gớm ghiếc “phía sau sườn đồi kia”. Đối với lũ tôi, những cái tên này vang lên như tên của những vương quốc khác. Cuộc chu du đến Lũng Đại Khê Thủy giống như cổ tích bởi lẽ thoạt tiên phải luồn qua những bụi cây hoang gở, hình thù cổ quái. Không hiểu sao chúng thường khiến cả bọn sợ hãi, như thể trong những bụi rậm ấy đang ẩn náu một thế lực thù địch, oán ghét chúng tôi và cả bọn cố gắng đi qua chúng thật nhanh, hiểu rõ rằng chiến thắng được hiểm nguy này, chúng tôi sẽ được một phần thưởng là màn tĩnh lặng có tiếng róc rách của Lũng Đại Khê Thủy. Nhà tôi được sở hữu một nửa cái lũng ấy, đường biên giới vô hình giữa phần đất của chúng tôi và xóm giềng chạy qua chính giữa lũng – từ vỉa đá hoa cương lộ ra cho đến một thân cây cao và chạy tiếp qua cái hồ với quả đồi mối xông. Khăp lũng mọc đầy cỏ rậm, những thân cây cao ráo rợp mát đứng hai bên bờ dòng suối nước cạn khô về mùa hè – giờ thì lòng suối biến thành một vệt xanh rực, rộng đến nửa dặm với những khoảng nước xám nằm giữa đám lau lách, nơi bầu trời phản chiếu, sáng lên lấp lánh. Rừng quanh đó là rừng cổ, chưa từng bị đốn, và tất tần tật mọi thứ ở lũng từ ngọn cỏ, cái gai đều sơ khai nguyên thủy mang vẻ hoang dã, nguyên lành và có một không hai trên đời.

Những hồ nước nơi đây chẳng bao giờ bị khô cạn. Dưới đáy bùn của chúng, qua làn nước trong sẫm màu, thấy có những con vật bé xíu ngọ ngoạy, còn phía trên mặt nước chao sóng thấp thoáng những con chim dẻ cùi xanh biếc, lũ chim ruồi óng ánh nhiều màu và lũ chim gì không rõ nữa lông màu sặc sỡ - chúng tôi chẳng biết tên gọi của bọn chúng, - bên rìa hồ, cạnh những bụi cỏ lác um tùm, những bông huệ nước hai màu trắng hồng nhè nhẹ đung đưa trên tán lá tròn trong ánh long lanh của những giọt nước trong veo.

Chúng tôi lại phải huấn luyện dạy dỗ bọn chó ở nơi thiên đường này đây.

Suốt một tháng rưỡi của kỳ nghỉ đầu tiên, anh trai tôi tỏ ra không mệt mỏi. Mỗi sáng sau bữa ăn, chúng tôi lại lên đường. Trong Lũng, tôi ngồi ghé bên bờ hồ dưới bóng một bụi mận gai và, khua khoắng chân dưới nước, thả hồn vào mơ mộng theo tiếng nước ì oạp, còn anh trai thì trang bị súng săn, đeo gậy gộc đủ loại dài ngắn khác nhau, mang theo những mẩu đường và miếng thịt sấy, mặt đầm đìa mồ hôi, anh dạy bọn chó đủ thứ bí hiểm. Thảng hoặc, tôi choàng tỉnh khỏi cơn mơ màng vì mặt trời xuyên qua tán lá mận gai bắt đầu hun đốt đôi vai tôi, ngoảnh lại cố nhìn xem bộ ba kia khó nhọc thế nào trên bãi cát dưới nắng nung thiêu đốt. Joke thường nằm dài khi nghe lệnh “Chết!” hoặc, đặt mõm lên đôi chân duỗi dài, chăm chú nhìn vào mắt anh tôi. Hay là nó ngồi bất động như chó đá, - cái sự nghe lời ấy... quả là không phải chó nữa mà là vàng ròng! Billy thì vẫn cứ ườn oại nằm ngửa, chổng bốn chân lên và rướn cổ, xoài ra dưới nắng nóng, chường hết bộ lông lốm đốm của mình ra cho những tia nắng mặt trời rọi vào. Cắt ngang dòng suy tưởng lơ mơ ngái ngủ của tôi là những câu:

- Giỏi lắm, Joke, rất giỏi! Billy, đồ ngốc, sao mà mày chẳng muốn lao động chút nào vậy, đồ ngốc kia! Hãy nhìn Joke mà học tập kìa!

Cả người đẫm mồ hôi và đỏ au lên, anh tôi ngồi phịch xuống cạnh tôi và càu nhàu:

- Con Billy hư quá, toàn làm gương xấu. Con Joke hẳn sẽ nghĩ nó cần gì phải gắng sức trong khi con Billy thì toàn làm trò dớ dẩn!

Nhưng chắc là tôi có lỗi trong mọi chuyện khi mà chuyện học hành của bọn chó chẳng nên cơm cháo gì. Giá mà tôi để ý đến thật nghiêm túc và chăm chú việc anh tôi và lũ chó luyện tập, - mà tôi thì quá rõ rằng người ta chỉ muốn tôi như vậy thôi, - thì rất có thể rốt cục thì chúng tôi cũng sẽ có được đôi chó biết nghe lời, được huấn luyện tử tế, lúc nào cũng sẵn sàng nằm ịch ra đất mà “chết” hoặc đi kè kè cạnh chân và mang đồ giữa hai hàm răng. Rất có thể là sẽ có được thành quả như vậy, ai mà biết được?

Trong quãng sau của kỳ nghỉ thì xảy ra chuyện bất đồng quan điểm. Bố kêu ca là chẳng có cái luật lệ nào áp dụng với lũ chó cả và ông đòi hỏi phải dạy dỗ bọn chúng một cách nghiêm túc, không được nương tay tí nào. Thấy cảnh mẹ âu yếm Joke và quở mắng Billy, tôi và anh tôi cùng giữ một hiệp ước im lặng. Sáng sáng, chúng tôi vẫn lên đường đến Lũng Đại Khê Thủy như trước nhưng khi đến được đó, cả ngày chỉ loăng quăng nhàn rỗi bên dòng nước, mặc cho bọn chó hưởng niềm vui sướng của tự do.

Đấy, chẳng hạn, dòng nước mang lại cho chúng bao nhiêu là thú vui. Con Joke đạo mạo ban đầu chỉ thử đứng trên bờ thò chân chạm vào nước, tiếp đó chậm rãi đi xuống hồ ngập tới ngực, chỉ độc cái mõm của nó vẫn thò lên trên những xoáy nước, nó vui sướng thè lưỡi tóm lấy những vòng xoáy ấy, sủa vang thân thiện. Thế rồi nó cẩn thận thả ngập mình và bắt đầu bơi trong làn nước ấm, dưới bóng xanh ngắt của bụi mận gai. Billy bấy giờ vẫn say sưa những trò vui của mình. Phát hiện được một hồ nước bé, nó chạy ra xa cách rìa hồ độ 20 ác-đơ (1) và lao về phía hồ bằng cách lộn tùng phèo trên cỏ, kêu ăng ẳng đinh tai nhức óc một cách hân hoan; nó nhảy trên mặt nước sang các hướng thì đúng hơn là nó bơi lội – lúc thì nó đã ở tận cùng của cánh đồng cỏ, lúc lại chạy ào đến chúng tôi, rẽ ngang, bay vút đi, rồi lại quay lại… cứ như thế không ngơi nghỉ. Bụi nước từ chân nó bắn lên tung tóe thành từng luồng rơi xuống trở lại rào rào, còn nó thì phóng biến đi, tung ra những tiếng sủa hoan hỉ phấn chấn. Bọn chó còn có trò đuổi bắt nhau nữa, hệt như hai địch thủ chạy trên lũng, - từ đầu này đến đầu kia của lũng dài độ bốn dặm, và, khi con nọ bắt được con kia thì chúng gầm lên đến phát cuồng, gừ gừ một lúc rồi phóng trên mặt đất, khiến cái trận chiến này rất dễ đùa thành thật.

Đôi khi chúng tôi tách bọn chó ra, và chúng cũng không chống cự lại can thiệp của tụi tôi nhưng chỉ cần thả ra một cái là trong nháy mắt thằng nọ giằng ra khỏi chỗ mà bay là là trên mặt đất, thằng kia thì lẳng lặng  và hung tợn đuổi theo ngay. Chúng có thể chạy như thế cả dặm, hai dặm, cho đến khi thằng nọ tóm cổ được thằng kia và ép dí xuống mặt đất. Trò chơi này chúng tôi phải chứng kiến nhiều lần đến nỗi, sau này, khi bọn chó hoàn toàn trở về hoang dã, chúng tôi cũng hình dung được chúng giết lợn lòi và hươu để ăn thịt thế nào.

Khi đôi chó chỉ muốn nô giỡn đôi chút, chúng thường đuổi bắt bướm và anh em tôi cùng ngồi thả chân xuống làn nước, mắt dõi theo chúng. Một lần, Joke dường như muốn giễu cái sự thử dạy dỗ nó mà rất may đã bị bỏ bễ, đã cắn giữa hàm răng một con bướm lớn màu cam pha đen mang về cho chúng tôi với một vẻ nghiêm trang nhất đời. Đôi cánh mỏng của con bướm bị gãy, lớp bụi phấn vàng óng phủ trên mõm Joke, nó đặt con bướm cạnh chúng tôi, lấy chân ép con vật hoảng hốt vẫn còn giãy dụa xuống đất rồi ngồi xuống bên, hất mũi chỉ vào con bướm. Con thú ác này vờ vĩnh giương đôi mắt nâu lên, trên mặt nó rõ ràng có dòng chữ: “Các người thấy chưa – một con bướm! Giỏi lắm, Joke, giỏi lắm!”. Còn Billy bấy giờ thì vẫn nhảy, vẫn sủa và bật tưng tưng trong không gian theo bóng những cái cánh nhỏ thấp thoáng – một cục bông nhỏ màu hạt dẻ trên nền trời xanh biếc bao la. Con bướm tù binh của Joke dường như Billy không nhìn thấy, song hai anh em chúng tôi cảm thấy rằng cái trò láo toét này có lẽ không phải của Joke mà là của Billy. Anh tôi một lần còn nói:

- Biết không, chính Billy đã làm hư Joke. Không có thằng Billy thì con Joke chẳng bao giờ tự dưng cứng đầu như thế này đâu, anh tin chắc. Gien nòi giống cũng ảnh hưởng đấy.

Than ôi, dạo ấy chúng tôi còn chưa lường được thế nào là “cứng đầu cứng cổ”, và trong vòng một hai năm sau đó những thủ đoạn của bọn chó vẫn còn tạm coi được là ngây thơ vô tội.

Chẳng hạn, một lần Billy chui vào nhà kho qua một thanh gỗ cửa đóng ẩu và xực hết mọi thứ: trứng, bánh ngọt, bánh mỳ, cái đùi bê, gà hun khói và cả đùi dăm bông nữa. Chui ra thì đương nhiên là nó không chui được. Đến gần sáng, nó phình ra, căng tròn và chỉ còn biết lăn lông lốc trên sàn, rên ư ử vì những hậu quả kinh hãi của sự thiếu kiềm chế của mình.

- Đấy, mày thật là ngu ngốc, Billy ạ! Joke thì chẳng bao giờ lại làm thế, nó sẽ lường được ngay là sẽ vỡ bụng nếu mà chén lắm như thế!

Sau đấy thì Billy quay ra tha trứng ngay từ trên ổ, mà hành vi này đã bị coi là phạm tội rồi, người ta vẫn giết lũ chó ở các trang trại vì tội ấy. Còn Billy thì tránh được cái kết cục đó. Một vài lần người ta thấy Billy chui vào chuồng gà, - mõm dính đầy lông gà, mũi thì nhoe nhoét lòng đỏ trứng. Còn trên các ổ gà, giữa nệm rơm có lòng đỏ lòng trắng dính dớp, sền sệt. Billy vừa mới lọ mọ đến gần, bọn gà đã kêu thất thanh và lông cánh dựng đứng hết cả lên. Ban đầu, bà bếp đánh cho Billy một trận khủng khiếp đến nỗi Billy làm kinh động cả điền trang bằng tiếng rít tru tréo ăng ẳng của mình. Sau rồi mẹ nhồi đầy mù tạc vào những cái vỏ trứng và đặt vào ổ. Sáng hôm sau, cả nhà bị đánh thức dậy bởi tiếng kêu gào thống thiết: trận đòn khủng khiếp hôm qua ấy chẳng dạy được Billy điều gì cả. Chạy ra khỏi nhà, chúng tôi thấy con chó màu hạt dẻ với cái lưỡi thè lè đang chạy điên lên trong sân và một mặt trời đỏ nằm trên rặng núi đen thẫm – một phông trang trí tuyệt diệu dành cho cái cảnh thô bỉ đang diễn ra trước mắt chúng tôi. Mẹ rửa cái mõm đang đau đớn của nó bằng nước ấm và nói:

- Đấy, Billy. Nhìn xem, nhận lấy bài học nhé, không có là xong đời rồi con ạ.

Còn Billy thì lĩnh hội bài học ấy quả là muôn phần khó nhọc. Vài lần tôi cùng anh tôi bước ra bậc thềm để chuẩn bị đi săn, dừng lại trong cảnh tĩnh mịch của rạng đông dưới bầu trời xám cao vòi vọi. Những ngọn núi bắt đầu hồng ửng lên, chung quanh đó, những cánh rừng bất tận im phắc, trong những cánh rừng này vẫn đang ẩn chứa màn đêm, hơi lạnh sương mai tươi mới ngập vào hồn; hương rừng đêm mơ màng làm quay cuồng đầu óc, không gian có mùi ngai ngái của ngải đắng làm đôi má tê cóng. Chúng tôi khẽ huýt sáo gọi bọn chó. Con Joke dù đang ở đâu cũng chạy đến ngay tức thời, ngáp và vẫy đuôi. Còn Billy thì chúng tôi phát hiện ra đang đứng gần chuồng gà. Thò mũi qua bờ giậu thép, mắt nhắm nghiền, nó đang tơ tưởng đến cái dịu ngọt ấm nồng của những quả trứng gà vừa xuất ổ. Chúng tôi đến nghẹt thở vì một trận cười khoái trá nhẫn tâm, hai đứa dúm dó cả lại và cố lấy tay bịt miệng để khỏi đánh thức bố mẹ.

Bắt đầu cuộc săn, chúng tôi biết rõ rằng chỉ cần đi độ nửa dặm là một trong hai con sẽ sủa nhặng lên mà lao vào bụi rậm, rồi thằng kia cũng lao theo, để lại những dấu vết mà chính nó sau đó lại tự dí mũi vào đánh hơi; tiếng sủa điên cuồng của hai đứa sẽ nhỏ dần, nhỏ dần, chỉ còn vẳng lại tiếng răng rắc sột soạt của những cành cây con mà bọn chó làm gãy hoặc bị một con vật nào đó đang hoảng hồn làm gãy, một con vật trước đó một phút còn đương ngủ hay an lành gặm cỏ, hoặc đang ẩn mình đợi cho chúng tôi đi qua. Giờ, bọn tôi đã có thể bắt đầu nhìn thấy những con mồi mà chắc chẳng bao giờ thấy được nếu có lũ chó kè kè bên cạnh. Lắm khi chúng tôi đứng hàng giờ rình xem một con sơn dương hoặc đôi hươu, rón rén đến gần chúng từ mọi phía. Quên bẵng hết thảy mọi thứ trên đời, hai anh em tôi mê mải ngắm chúng,  nằm sấp xuống đất, chỉ lo mỗi điều là Billy và Joke chạy về và đặt dấu chấm hết cho cái trò vui tuyệt vời này. Tôi còn nhớ, một lần, trước khi mặt trời lên, chúng tôi nhìn thấy bên rìa cánh đồng của nông trại bên cạnh một con sơn dương với cặp sừng cồng kềnh. Hai anh em nằm bẹp xuống và trườn qua đám cỏ cao, thậm chí chẳng còn để ý là con sơn dương còn đó không nữa.

Trước mắt chúng tôi dần hiện ra một cánh đồng với những mảng đất đen dựng đứng. Thận trọng ngẩng đầu lên và trên bờ thửa ruộng cày vỡ ấy, chúng tôi thấy gần như ngay cạnh mình ba con sơn dương non. Nghênh đầu về hướng mặt trời sắp mọc, chúng đứng hoàn toàn bất động – ba dáng hình màu đen nhẹ bỗng. Những tảng đất ở phía rìa xa của cánh đồng bắt đầu ửng lên thấy rõ. Mặt đất đón chào mặt trời mau lẹ đến nỗi ánh sáng chạy trượt trên đồng, nhảy từ tảng đất này sang tảng đất kia như thể một ngọn lửa bị gió đuổi qua những ngọn cờ lau của đám cỏ xước. Và rồi ánh sáng chạy đến bên bọn sơn dương, dịu dàng phủ lên đường nét thân thể chúng một viền vàng chói lọi. Những tia nắng hẳn đang sắp rót xuống ba bức tượng vàng rực kia thì bỗng những chú sơn dương đẩy nhau nhảy bật đi, tung hai vó sau, gõ móng lọc cọc tuồng như đang nhảy một điệu vũ kỳ lạ.

Chúng hất những cặp sừng nhọn hoắt ra phía sau,  không ra đùa giỡn, không ra giận dữ, chúng xô đẩy lẫn nhau. Trong lúc bọn sơn dương đang nhảy múa bên rìa cánh đồng cạnh khu rừng tối, nơi chúng tôi đang nấp, thì mặt trời đã ló ra, ánh sáng thanh dịu nhảy nhót trên những cặp mông sơn dương. Mặt trời tách ra khỏi đường gấp khúc của dãy núi và trở nên to tròn, điềm tĩnh, vàng rực; ánh sáng vàng ấm sưởi cho mặt đất. Lũ sơn dương ngừng nhảy múa và chậm rãi đi vào rừng, ngoe nguẩy những cái đuôi trắng nhỏ, nghênh nghênh đầu một cách duyên dáng.

Bọn chó mà không chạy xa độ vài dặm như thế thì hẳn chúng tôi cũng chẳng có dịp nhìn được những con vật đẹp lộng lẫy như vậy. Thú thực, phẩm chất duy nhất của lũ chó mang lại chút ít lợi lộc cho chúng tôi đó chính là cái sự không nghe lời. Nếu hôm nào chúng tôi muốn bắn con mồi nào đó cho bữa chén ở nhà thì hai anh em buộc dây vào cái cổ dề của chúng và nấp đợi nghe tiếng chân chạy lóc tóc khe khẽ của lũ gà hoang. Tức thì chúng tôi thả dây chó. Bọn chó lao vào lũ gà chim, bọn này thì vụng về bay lên như những chiếc khăn san bị quăng vào không gian và bay là là sát mặt đất, ngay cạnh những cái hàm chó đang nghiến kèn kẹt.

Lũ gà tội nghiệp rất muốn hạ cánh xuống đâu đó trong đám cỏ lác cao cao, nhưng bọn chó đã khiến chúng phải ì ạch đậu trên cây với những đôi cánh yếu ớt như thế. Thảng hoặc, khi chúng tôi tấn công một bầy gà lớn thì bọn gà đậu kín có dễ đến chục cái cây thành những dấu chấm đen sống động trên nền trời chiều hoặc rạng đông. Bầy gà dõi theo hai con chó đang sủa chứ chẳng hề chú ý gì tới chúng tôi. Dạng chân đứng tấn, anh trai và tôi – vâng, lúc bấy thì cả tôi cũng khó mà bỏ qua – lựa chọn các chú gà, ngắm và bắn. Con gà hoang rơi đúng vào cái mõm đang háo hức há hoác ra. Lúc ấy, chúng tôi lại ngắm và một con nữa lại rơi. Hãnh diện vung vẩy hai con gà bị trói chân và vác khẩu súng đã chứng minh được ích lợi không còn gì phải nghi ngờ nữa của mình, chúng tôi lững thững về nhà đâm qua cánh rừng thần kỳ của tuổi ấu thơ có ánh nắng mặt trời xuyên qua rực rỡ. Hai con chó vì lịch sự mà tiễn chân chúng tôi một quãng, rồi sau thì chạy đi tự săn mồi. Săn đuổi lũ gà hoang dạo ấy đối với chúng là một thú vui thơ trẻ.

(1) Đơn vị đo độ dài của Anh trước năm 1975: 1 ác-đơ= 91,44 cm.

Xem phần 1, phần 2, phần 3phần 4.

Tác giả bài viết: Thụy Anh dịch theo bản tiếng Nga - Còn tiếp