Nhịp Cầu Thế Giới Online

http://nhipcauthegioi.hu


Truyện ngắn của Doris Lessing (Nobel Văn chương 2007): CHUYỆN KỂ VỀ HAI CON CHÓ (2)

(NCTG) Đúng vào dạo đó, chúng tôi lên đường đi một chuyến du lịch có hành trình dài và xa – bố mẹ thi thoảng đi thăm các bạn bè đông đúc của mình; với một số người, chúng tôi ở chơi một ngày, rồi lại ngủ qua đêm ở nhà một vài người khác, với dăm người nữa thì chỉ đáo qua vài ba tiếng, ăn bữa trưa rồi vội vã đi tiếp.

Cuối cùng thì chúng tôi đến thăm người anh họ xa của bố, bác ấy mời chúng tôi qua chơi vào hai ngày cuối tuần. “Người gốc Norfolk” này (bố hay gọi bác ấy như vậy, mà chính bố cũng quê Essex) thời trẻ lấy một cô gái hồi chiến tranh – Đại chiến thứ Nhất ấy -  từng đối với mẹ tôi như chị em kết nghĩa. Giờ hai vợ chồng sống trong một trang trại nằm giữa những ngọn núi thấp vươn đỉnh đá của mình lên phía trên những khoảng rừng trùng điệp, cách ga xe lửa gần nhất tám mươi dặm. Bố kể rằng họ “không sống được với nhau”; mà quả đúng thật, suốt cả thứ Bảy và Chủ nhật, họ lúc cãi nhau, lúc sưng sỉa mà chẳng nói năng gì. Nhưng cái bi kịch của đôi vợ chồng bất hạnh sống giữa bầy núi đá với đồng lương hưu còm của mình chỉ một thời gian sau tôi mới hiểu được, - những ngày ấy tôi chẳng có tâm trí nào để ý tới họ, tôi đang yêu.

Chúng tôi đến chỗ hai người khi chiều đã buông, và phía trên khối đá hoa cương lạnh cóng của đỉnh núi xa, một mặt trăng vàng và gần như tròn vành vạnh chậm rãi ló lên. Những thân cây đen ẩn mình trong im lặng, chỉ có tiếng ve rền rĩ không ngừng. Ôtô dừng sát ngôi nhà gạch hình hộp có mái sắt sáng lấp lánh lên dưới trăng. Ào vào chúng tôi là tiếng ồn của máy nổ, tiếng kêu của lũ ve, vẻ tươi mới của đêm trăng và một tiếng sủa đầy kích động và tuyệt vọng.

Từ góc  nhà, một cuộn len đen tròn lăn ra, lao về phía xe, đến tận bánh xe, nhảy lùi lại rồi chạy biến đi, nghẹn ngào trong họng những tiếng sủa thanh thanh… và rồi tiếng sủa dịu đi, nhưng chúng tôi – ít nhất là tôi – căng tai ra vẫn còn bắt được tiếng kêu dại cuồng lanh lảnh.

- Cả nhà đừng có để ý đến nó, - ông Barnes, chủ nhà, “người gốc Norfolk”, nói, - con cún ngốc bị ánh trăng làm mụ mẫm cả người, cả tuần nay hành bọn tôi.

Chúng tôi được dẫn vào nhà, được mời ăn, được nghỉ ngơi yên ấm, rồi tôi bị điệu đi ngủ để người lớn có thể nói chuyện thoải mái. Tiếng sủa lanh lảnh đầy kích động vẫn không ngừng lấy một phút. Chiếc sân phía dưới ô cửa sổ phòng tôi đang nghỉ chạy dài đến những kho chứa cỏ, ánh lên cả một mảng trăng hình chữ nhật bằng phẳng, và trên mảnh sân ấy có bóng nhỏ loăng quăng của một chú cún con ngốc nghếch cuồng lên vì hân hoan – hay vì ánh trăng. Như một mũi tên, nó bay về phía nhà, vút đến nhà kho rồi lại trở về phía nhà, đoạn, bắt đầu quay vòng vòng, lăn xả vào cái bóng đen của mình, lết lết một cách tức cười trên những cẳng chân mập mạp vụng về, trông nó giống như một con bướm say khổng lồ xoắn xuýt quanh ngọn nến và còn giống… không biết giống cái gì nữa, tôi trong đời chưa bao giờ nhìn thấy cảnh tượng như vậy.

Mặt trăng lớn đằng xa treo trên những ngọn cây, phía trên hình chữ nhật màu trắng trống trải của khoảng sân không có lấy một ngọn cỏ, phía trên tổ ấm của những con người cô độc bất hạnh, phía trên chú chó say cuồng vì vui sướng – chú chó nhỏ của tôi, tôi đã hiểu ngay ra điều ấy. Ông Barnes bước ra sân, nói: “Thôi đủ rồi, đủ rồi, im đi nào, con vật ngốc nghếch”, - rồi bắt đầu cố tóm lấy sinh vật bé nhỏ cuồng loạn ấy , nhưng không sao bắt được, rút cục, ông gần như ngã đè lên con chó nhỏ, ông tóm lấy nó đưa lên cao, còn chú chó cứ sủa mãi, rền rĩ và quật người trong tay ông như một con cá. Ông này vứt cún con vào cái thùng có để chiếc cũi. Tôi thầm thì trong hoảng sợ, y như mẹ mỗi khi có người lạ bế đứa con của bà lên: “Xin cẩn thận cho, cẩn thận cho, đây là con chó của tôi đấy”.

Buổi sáng, sau bữa ăn, tôi đi vòng ra sau nhà đến chỗ cái cũi. Thoảng lên mùi nhựa thông ngọt ngào bốc ra từ những thớt gỗ trắng của chiếc hòm trong ngày nóng nực; mảnh gỗ bên sườn đã được tháo ra, phía trong cái thùng có ít rơm vàng mềm mại. Trên lớp rơm, một con chó cái đen tuyền đẹp tuyệt đang nằm, gác mõm lên đôi cẳng chân duỗi dài. Phía sau nó, một chú cún tròn quay có bộ lông sáng màu nằm sượt, uể oải, khoan khoái xoạc cẳng, nhắm nghiền mắt trong niềm đê mê của sự bình yên no đủ và lười nhác. Trên túm lông đen bóng loáng cạnh mũi còn vương vệt cháo ngô đã khô, trong mõm nó ánh lên những chiếc răng sữa trắng muốt xinh xắn. Chó mẹ không rời ánh mắt kiêu hãnh của mình khỏi cún con cho dù nóng nực và mệt mỏi cũng làm nó lử lả đi rồi.

Tôi đi vào và và tuyên bố rằng tôi muốn có chú cún con. Tất cả bấy giờ đã ngồi vào bàn. “Người gốc Norfolk” và bố tôi đang đắm chìm trong ký ức ấu thơ (trong đó chỉ có những kỷ niệm trùng nhau về địa điểm chứ về thời điểm thì không!). Bà vợ của ông – đôi mắt còn đang đỏ hoe vì nước mắt sau trận cãi nhau với chồng – thì đang buôn với mẹ tôi về những khách sạn London, nơi thời chiến, họ từng có mặt để làm dịu đi những đau đớn của những người bị thương, và bây giờ họ cảm thấy dễ chịu khi hồi tưởng về điều ấy. 

Ngay tức thời, mẹ tôi phản đối:

- Con sao vậy, không bao giờ, không thể được! Con không thấy tối qua nó làm cái quái quỷ gì à? Con nghĩ có thể dạy dỗ nó điều gì sao?

“Người gốc Norfolk” nói xin cứ tự nhiên, ông sẵn lòng cho tôi chú cún.

Bố bảo rằng theo ý bố, con cún cũng chỉ là con cún, chẳng thấy có gì kinh khủng trong con cún ấy cả, cái chính là con chó phải khỏe mạnh, còn mọi cái khác đều là chuyện nhỏ! Mẹ hạ mắt xuống với dáng điệu một người u sầu chẳng được ai thấu hiểu và im bặt.

Phu nhân của “người gốc Norfolk” thì nói rằng sẽ không thể chia tay nổi với chú ngốc bé bỏng ấy – có Chúa chứng giám, trong đời bà vốn cũng đã có quá ít niềm vui.

Xem phần 1.

Tác giả bài viết: Thụy Anh dịch theo bản tiếng Nga - Còn tiếp