NHÀ THƠ HỮU LOAN VÀ BÀI CA BI TRÁNG
- Thứ sáu - 17/12/2004 17:48
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Một hình ảnh người phụ nữ như thế đã được cô đúc trong thi phẩm "Màu tím hoa sim" của thi sĩ Hữu Loan, ra đời cách đây già nửa thế kỷ, nhưng vẫn giữ nguyên sức hấp dẫn và vẻ đẹp trinh nguyên trong lòng bao thế hệ độc giả.
*
Nhà thơ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh năm 1916 tại thôn Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa (hiện ông vẫn ở đây) trong một gia đình tá điền. Không được đến trường, chỉ học tại gia và được người cha (là một nhà nho nghèo) dạy dỗ, nhưng bù lại, Hữu Loan có tư chất rất thông minh. Khoảng năm 1938, Hữu Loan vác lều chõng ra Hà Nội đua tài và cùng Nguyễn Đình Thi và một vài bạn hữu, ông đã thi đỗ trong một kỳ thi mà số người đậu thật hiếm hoi.
Sau đó, Hữu Loan dạy Pháp văn từ 1939 và tham gia Việt Minh từ trước năm 1945. Ông từng tham gia cướp chính quyền ở tỉnh Thanh Hóa tháng 8-1945 và được bầu làm chủ tịch lâm thời tại đây. Khoảng thời gian 1946-1951, Hữu Loan theo sư đoàn 304, tham gia BBT chủ lực của tạp chí "Chiến sĩ Quân khu Tư". Nơi đây, ông có dịp gặp tướng Nguyễn Sơn, một vị tướng tài ba rất yêu quý giới văn nghệ sĩ kháng chiến.
Hữu Loan làm thơ không nhiều nhưng ông có một số bài được nhiều người thuộc, phản ánh tình cảm của con người trong kháng chiến như "Đèo Cả", "Những làng đi qua"... Đặc biệt, nhắc đến Hữu Loan, ai cũng phải nghĩ đến "Màu tím hoa sim", thi phẩm bi tráng có mặt trong sổ tay của mọi người lính thời chống Pháp, một bài ca lãng mạn và hào hùng, được tổng giám đốc Công ty cổ phần điện tử Vitek VTB đánh giá là có thể đại diện cho nền thi ca Việt Nam thế kỷ XX (và do đó, mới đây, công ty này đã mua bản quyền bài thơ với mục đích tôn vinh giá trị tinh thần của thi ca Việt Nam). Không phải ngẫu nhiên mà ít nhất, đã có ba nhạc sĩ (Phạm Duy, Anh Bằng và Dzũng Chinh) đã phổ nhạc thành công cho bài thơ và nửa thế kỷ nay, câu hát "Áo anh sứt chỉ đường tà..." vẫn còn day dứt trong mỗi người dân của xứ sở Việt Nam, vốn trải qua bao truân chuyên của các cuộc chiến tranh kéo dài.
*
Mối tình huyền thoại của thi sĩ Hữu Loan với cô học trò kém ông 16 tuổi, "điểm tựa" cho thi phẩm "Màu tím hoa sim", đã được truyền tụng từ hơn nửa thế kỷ nay trong giới yêu văn thơ.
Bà Lê Đỗ Thị Ninh (ái nữ ông Lê Đỗ Hữu Kỳ, tổng thanh tra Bộ Canh nông xứ Đông Dương) mới 16 tuổi khi bà thành hôn với nhà thơ Hữu Loan, lúc đó là một chàng trai mẫn thiệp 32 tuổi. Trước đó 16 năm, cậu học trò Hữu Loan từng trọ học dài ngày tại gia đình thân phụ bà Ninh và chính tay cậu đã bế cô bé Ninh khi cô mới chào đời được vài ngày. Là một người rộng lượng và tốt bụng, vợ ông Lê Đỗ Hữu Kỳ đã cho Hữu Loan trọ học, ăn ở và dạy kèm các con, thậm chí, thấy cậu hiền lành, bà Kỳ còn nhận cậu làm con nuôi.
"Chiếc bình hoa ngày cưới..." - Ảnh: Văn Khoa (từ Sài Gòn)
Thời gian trôi qua, cô Ninh ngày một lớn và xinh đẹp, phúc hậu. Bẵng đi một thời gian, khi trở lại gia đình ông bà Kỳ, chàng trai Hữu Loan lại được giao nhiệm vụ dạy cô Ninh học và anh thương yêu cô như người em gái nhỏ; ngược lại, cô gái ở tuổi mới lớn thấy ở chàng trai vẻ đĩnh đạc, cứng rắn và dạn dày sương gió. Rồi sau đó, được sự đồng ý của gia đình ông bà Kỳ, hai ngưòi đã thành thân với nhau năm 1948. Cưới vợ xong, chàng trai Hữu Loan chỉ ở nhà được vài ngày rồi theo đoàn quân 304 đi kháng chiến. Gần ba tháng sau, anh nhận được tin người vợ trẻ bị nước cuốn trôi trong khi giặt giũ ngoài sông Nông Cống. Niềm đau thương, xót xa trước cái chết của người vợ trẻ cộng với cảm hứng mãnh liệt của người lính nơi biên ải đã khiến Hữu Loan viết "Màu tím hoa sim" rất dễ dàng. Với lời lẽ dung dị, cảm động, xuất phát tự con tim, "màu tím hoa sim" đã trở thành bất tử cùng tên tuổi của thi sĩ Hữu Loan!
*
Sau khi hòa bình lặp lại, Hữu Loan bỏ thị thành về quê làm ruộng và không sáng tác nhiều. Trả lời báo chí, ông thẳng thắn: "Tôi là người hay cãi, thích chống đối, không thể làm những gì trái với suy nghĩ của tôi". Con người với cá tính mạnh mẽ và không chịu khuất phục ấy, trong sâu thẳm tâm hồn, lại thật đa cảm: các bạn văn của Hữu Loan kể rằng chiếc bình hoa ngày cưới, đến nay, vẫn được ông gìn giữ và ngày ngày nhang khói cho người vợ quá cố. Và thi phẩm để đời "Màu tím hoa sim" của ông, sẽ mãi mà là bài ca về tình yêu son sắt thời binh lửa, gợi nhớ một chặng đường dài mà dân tộc Việt Nam đã đi qua để giành được độc lập dân tộc và mái ấm cho những cặp yêu nhau!
MÀU TÍM HOA SIM
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết nói
Khi tóc nàng đang xanh xanh.
Tôi người vệ quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi may áo mới
Tôi mặc đồ quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất hành quân
Nàng cười xinh xinh
bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời chiến binh
Mấy người đi trở lại
Nhỡ khi mình không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều quê...
Nhưng không chết
Người trai khói lửa
Mà chết
Người gái nhỏ hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
thành bình hương
tàn lạnh vây quanh
Tóc nàng xanh xanh
ngắn chưa đầy búi
Em ơi giây phút cuối
không được nghe nhau nói
không được trông nhau một lần
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em gái mất
trước tin em lấy chồng;
Gió sớm thu về rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió sớm thu về
cỏ vàng chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
tím chiều hoang biền biệt.
Có ai ví như từ chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình hay ác ý với nhau
Chiều hoang tím có chiều hoang biết
Chiều hoang tím tím thêm màu da diết.
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa
áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh mất sớm, mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ ứa
Ráng vàng ma và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh nát chỉ dù lâu...
(Hữu Loan, 1949 *)
(*) Theo bản chép tay có chữ ký của nhà thơ Hữu Loan và dấu đăng ký của Cục Tác quyền (NCTG đăng lại với sự cho phép của Công ty Vitek VTB).