CHỦ NHẬT BUỒN”, CA KHÚC “CHẾT NGƯỜI” CỦA NGƯỜI HUNG (2)
- Chủ nhật - 08/04/2007 16:51
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Xem Phần 1 của bài viết.
Ấy là Seress Rezső, một nhạc sĩ tự học, vụng về nhưng thiên tài: từ Quận VII bùn lầy nước đọng của thủ đô Budapest, ông đã có một bài ca được các cây đại thụ trong làng nhạc quốc tế xưng tụng.
Chỉ cần nhắc một vài cái tên - Louis Armstrong, Bing Crosby, Frank Sinatra, hay Ray Charles -, và sau đó, hễ một ngôi sao quốc tế nào đưa “Chủ nhật buồn” (Gloomy Sunday) vào chương trình của mình, thì họ đã cầm chắc trong tay sự thành công.
Chào đời năm 1899 trong một gia đình gốc Do Thái, tên thật là Spitzer Rudi, tác giả phần nhạc “Chủ nhật buồn” thường được gọi với cái tên “Seress bé nhỏ” vì ông chỉ cao hơn 1m55 chút đỉnh. Cả đời chỉ chơi nhạc buổi tối ở Kulacs và Kispipa, hai tiệm ăn nhỏ và đầy khói thuốc lá ở Budapest, nơi đầu thập niên 30 từng là nơi gặp gỡ của tầng lớp tiểu thị dân nghèo khó gồm những cặp tình nhân rách mướt, những anh tài-xế say xỉn và những chị gái điếm rẻ tiền.
Như hồi tưởng của người đương thời, chỉ ở giữa tiệm ăn họa chăng còn chút hơi ấm của chiếc lò sưởi gạch màu nâu, chứ khách khứa ngồi gần cửa ra vào vẫn phải mặc nguyên áo khoác vì lạnh lẽo. Hầu như thực khách không mấy khi thấy rõ Seress ngồi khuất sau chiếc dương cầm.
Miệng phì phép thuốc lá, giọng khản đặc, chỉ chơi dương cầm kiểu “mổ cò” với hai ngón của bàn tay phải, lần mò tìm nốt nhạc, vậy mà theo lời kể của người đương thời, hàng ngày, từ 6 giờ tối đến rạng sáng, Seress đã tạo nên một bầu không khí “bốc lửa” tại nơi ông chơi nhạc.
Sức hấp dẫn của ông là ở đó: cuốn sổ lưu niệm của ông, với thủ bút và ý kiến của những nhân vật lừng danh đương thời cũng xác nhận điều này. (Seress có một cuốn “Sổ vàng” bọc lụa đỏ mà sau khi ông mất, những kẻ thừa kế - trong cơn thất vọng tràn trề - đã quẳng đại vào sọt rác.
Hầu như đó là một cẩm nang “Who is who?” của thế kỷ XX với những tên tuổi như Arthur Rubinstein, Jascha Heifetz, Arturo Toscanini, Luchino Visconti, Spencer Tracy, Wallace Beery, Sonja Hennie, John Steinbeck, Louis Armstrong, Ray Charles, Paul Robeson, Cyrus Eaton, U Thant, Benjamino Gigli, Conrad Veldt, George Cukor…)
Ngắn gọn, mà có lẽ chính xác hơn cả, là nhận xét của Otto Klemperer, nhạc trưởng lừng danh người Đức: “Không phải nhạc sĩ - chỉ là thiên tài” (Er ist kein Musiker - er ist ein Genie). Hẳn phải là như thế, vì trong 40 năm ròng rã của đời nghệ sĩ, Seress không hề biết viết, biết đọc bản nhạc, ông cũng không biết hát theo nghĩa thực của từ này.
Điều khiến ông thường xuyên có mặc cảm và lo lắng, nhất là khi biết có một nhạc sĩ nổi tiếng nào đó đặt chân đến cái tiệm ăn tồi tàn để nghe ông, là Seress cũng chẳng biết chơi dương cầm một cách “tử tế”. Ấy vậy mà ông vẫn liên tục cho “ra lò” những ca khúc mà đa phần đều rất được ưa chuộng!
Cách sáng tác của Seress cũng đặc biệt: vừa huýt sáo, ông vừa ngẫm nghĩ và khi được giai điệu nào “hợp lý”, ông nhờ người ghi lại thành bản nhạc. Thô sơ vậy mà trong đa số các trường hợp, chỉ trong ít ngày, từ cậu bé đánh giày, chị người ở đến các bà, các cô thị dân đều hát theo điệu nhạc của Seress, một thành công chắc chắn của sự thành công! Cố nhiên, trong số đó thì “Chủ nhật buồn” là đỉnh cao! Cho dù, không ít người đương thời cho rằng Seress còn ít nhất 40 ca khúc khác, không tồi hơn, thậm chí, có thể còn hay hơn “Chủ nhật buồn”!
Cuộc đời Seress đầy những chi tiết nổi trôi, và thực ra chúng ta cũng không biết được nhiều về ông. Thời thanh niên, qua tấm hình trên tờ quảng cáo, do mê một nữ tài tử xiếc uốn dẻo trên không mà Seress bỏ nhà theo một gánh xiếc và chỉ nhờ một may mắn kỳ lạ mà chàng trai ấy đã không bỏ mạng trong một buổi tập.
Về sau, Seress học kịch nghệ và biểu diễn tại một đoàn kịch ở Budapest trong vòng 9 năm. Tại đây, ông tìm thấy một chiếc dương cầm cũ nát và thử những giai điệu đầu tiên trên đó. Lũ trẻ rong chơi ngoài phố, giới quân nhân nghỉ phép và các cô cậu giúp việc là những thính giả đầu tiên của Seress: những tràng pháo tay tán thưởng các ca khúc ngẫu hứng do Seress sáng tác đã khích lệ ông chuyển hẳn sang con đường âm nhạc.
Năm 1925, nhạc phẩm “Một đêm nữa” (Még egy éjszakát) khiến tên tuổi Seress được biết đến trên toàn nước Hung; 16 ngàn bản nhạc được bán ra và đây là kỷ lục thời đó ở Hungary. Năm 1935, báo chí viết về Seress như sau:
“Ở nước ngoài, nếu một nhạc sĩ chỉ sáng tác được một phần tư số ca khúc được ưa thích so với Seress, thì người ấy hẳn phải sống vương giả, có nhà lầu 6 phòng, xe hơi, và có thể lựa chọn các hợp đồng phim. Còn Seress thì chơi dương cầm ở một quán nhỏ, thù lao “vương giả” mỗi tối là vài đồng và một bữa tối thanh đạm“.
Cần biết là thời ấy, muốn sống thoải mái, người Hung cần độ 200 Ft hàng tháng. Ấy vậy mà Serres không buồn ra nước ngoài để nhận thù lao từ các bản nhạc và đĩa hát được bán ra của ông, cho dù, chỉ riêng tại Ngân hàng Irving Trust, người ta đã giữ cho ông khoản tiền 370 ngàn USD (gần 1 triệu rưởi Ft)!
Các hợp đồng béo bở của ngoại quốc không khiến ông động lòng, Seress cũng không buồn đến dự buổi hòa nhạc ngày lễ tại Carnegie Hall, cho dù người Mỹ rất muốn tận mắt được thấy tác giả “Chủ nhật buồn” trong dịp đó!
Lẽ ra, Seress đã có thể sống giàu có, tiếng tăm như ông hằng mơ ước - vậy mà ông đã lựa chọn những tiểu thị dân, những cô sen, những cậu bé đánh giày… hàng ngày cứ đúng 6 giờ lại vào quán nghe ông chơi đàn và hát.
Cuối Đệ nhị Thế chiến, vì nguồn gốc Do Thái của mình, Seress Rezső bị bắt vào trại tập trung và phải xa Pest trong vòng 4 năm; đây có lẽ là lần duy nhất ông xa nhà. Trong khoảnh khắc kinh hoàng, khi phải tự đào hố chôn mình ở trại tập trung, một sĩ quan Đức từng nghe ông hát “Chủ nhật buồn” tại Budapest đã cứu ông khỏi cái chết chắc chắn.
Sau năm 1945, nước Hung đứng về phe bại trận và gia sản không nhỏ của Seress tại các ngân hàng Mỹ đã bị “đóng băng” với lý do… nước Hung phải bồi thường thiệt hại chiến tranh cho Đồng minh! Chưa hết, nhiều năm dưới thời XHCN, cạnh những nhạc sĩ lừng lẫy của nước Hung như Liszt Ferenc, Bartók Béla, Kodály Zoltán…, cái tên Seress Rezső cũng bị đưa vào danh mục cấm vì chính quyền cộng sản cho rằng các sáng tác của ông mang yếu tố độc hại, hơn nữa, theo cách nói thời bấy giờ, chúng “phục vụ cho chủ nghĩa đế quốc”.
Năm 1956, khi mấy trăm ngàn dân Hung di tản sau cuộc cách mạng mùa thu bị Liên Xô đàn áp, Seress đã có thể ra nước ngoài và bạn bè ông cũng khuyên nhà nhạc sĩ như vậy. Nhưng không gì khiến ông rời nước Hung! Seress nói nửa đùa nửa thật: “Tôi không dám lên máy bay vì sợ độ cao - đứng ở vỉa hè mà tôi cũng đã cảm thấy hoảng rồi! Hơn nữa, tôi có một giấc ác mộng là sẽ bị chết trong một tai nạn máy bay!“
Nói vậy, chứ sự thực là có hàng ngàn lý do khiến Seress không bao giờ muốn rời bỏ đất nước. Ông yêu vô cùng mảnh đất Budapest: trong 10 năm cuối đời, không bao giờ ông bước khỏi Quận VII nơi ông sinh sống và chơi nhạc. Ông đã quá yêu những con phố Pest, như trong ca khúc viết năm 1933:
Có một con phố
Nơi tôi tới để khóc
Đừng ai hay tôi chờ đợi ai
Có một con phố
Nơi chôn vùi hạnh phúc của tôi
Nước mắt tuôn trào xuống đá lạnh
Có một con phố
Ở Pest, chỉ toàn điềm gở
Vậy mà, hàng đêm
Tôi vẫn tới, âm thầm
Nơi chôn vùi hạnh phúc của tôi
Nước mắt tuôn trào xuống đá lạnh
(”Con phố Pest”, Pesti utca)
Một điều nữa: Seress coi mình là một thi sĩ và với ông, một anh đánh giày, một chị nướng bánh mỳ… hay bất cứ ai đều có thể rời quê hương, chỉ thi sĩ thì không! Và Seress biết, ở Hung, những khán thính giả bình dân không bao giờ rời bỏ ông! Nhất là, tại đó, ông có Helénke, cao hơn ông cả… hai cái đầu, từng được coi là phụ nữ đẹp nhất Budapest, người đã rời bỏ chồng là một đại tá hồi hưu sung túc để theo chàng nhạc sĩ nghèo với niềm tin sẽ có ngày Seress được vinh hiển!
Cùng vợ, nàng Helenke, từng được coi là người đàn bà đẹp nhất Pest
Sáu mươi chín tuổi, tháng 1-1968, khi biết mình lâm trọng bệnh, Seress đã tìm đến cái chết vào một ngày thứ Hai buồn bã bằng cách nhảy từ cửa sổ căn hộ ông sống, tại tầng 4 một tòa nhà.
Được đưa vào viện và vật lộn với vết thương nhiều ngày trời, Seress lại tìm cách tự thắt cổ bằng sợi dây thép để ra đi nhanh chóng hơn. Cả đời bị ám ảnh bởi cái chết, bài ca do ông phổ nhạc và đặt một lời cũng là một “tình ca chết chóc”, ấy vậy mà chính cái chết đã đưa Seress vào bất tử, như bản “Chủ nhật buồn” trước đó 35 năm.
*
“Chủ nhật buồn” được biết đến ở Việt Nam từ đầu thập niên 50, qua lời Việt của nhạc sĩ Phạm Duy. Nhạc sĩ cho biết:
“Trong thời gian du học ở Pháp, tôi rất yêu những bản nhạc tình của một nữ nhạc sĩ đang nổi tiếng tên là Nicole Louvier và có soạn lời tiếng Việt cho một số bài của cô ta. Rất buồn là tôi đã quên hết. Nhưng tôi nhớ là có vì cô mà soạn lời cho một trong những bài nhạc tình buồn nhất của thế giới.
Đó là bài SOMBRE DIMANCHE, được phóng tác từ nhạc dân ca Hung-gia-lợi. Bài này có hơi nhạc rất gần gũi với hơi nhạc của Nicole Louvier. Người đời có tạo một huyền thoại về bài CHỦ NHẬT BUỒN phóng tác từ nhạc bohémien này, nói rằng đã có người tự tử khi nghe bản nhạc…” (trích “Ngàn lời ca khác”).
Nơi yên nghỉ của nhà nhạc sĩ lớn tại Budapest
Trong vòng hơn 50 năm qua, cho dù ca khúc này tương đối khó hát, nhiều thế hệ ca sĩ miền Nam và hải ngoại - từ Khánh Ly, Sỹ Phú, Chế Linh, Duy Quang… đến Thiên Phượng… đã trình diễn “Chủ nhật buồn” qua lời Việt Phạm Duy. Ca từ của bản tiếng Việt, mặc dù, như lời Phạm Duy, là được phỏng theo bản tiếng Pháp, nhưng lại theo sát và phản ánh tinh thần của nguyên bản một cách tài tình và đáng phục:
Chủ nhật buồn, đi lê thê
Cầm một vòng hoa đê mê.
Bước chân về với gian nhà,
Với trái tim cùng nặng nề.
Xót xa gì? Oán thương gì?
Đã biết nuôi hương chia ly.
Chót say mê đã yêu thì
Dẫu vô duyên còn nặng thề.
Ngồi một mình, nghe hơi mưa,
Mặc lệ tràn câu thiên thu.
Gió hiên ngoài nhắc một loài
Dế dun hoài ru thương ru.
Ru hỡi ru hời!
…
Chủ nhật buồn, tôi im hơi
Vì đợi chờ không nguôi ngoai.
Bước chân người nhớ thương tôi,
Đến với tôi thì muộn rồi!
Trước quan tài, khói hương mờ
Bốc lên như vạn ngàn lời.
Dẫu qua đi, mắt tôi cười
Vẫn đăm chiêu nhìn về người.
Hồn lìa rồi, nhưng em ơi,
Tình còn nồng đôi con ngươi,
Nhắc cho ai biết cuối đời
Có một người yêu không thôi
Ru hỡi ru hời!
Bài ca do Phạm Duy đặt lời, nhiều người không để ý, có thể tưởng nó là “thuần Việt”, vì nó được du nhập vào Việt Nam đúng lúc đất nước phân ly, lòng người tan nát và tao loạn. Như nhạc sĩ Phạm Duy nhận xét, “Chủ nhật buồn” có thể đã ảnh hưởng nhiều đến dòng nhạc tình nói về thân phận những cặp tình nhân yêu nhau trong cơn mê sảng và nhức nhối, với tâm thức có thể xa nhau (vĩnh viễn) bất cứ lúc nào, xuất hiện ở miền Nam cuối thập niên 50 thế kỷ trước.
Dòng nhạc tình ấy, hẳn nhiên, không còn phản ánh thứ “tình xanh khi chưa lo sợ” của các nhạc sĩ tiền chiến như Lê Thương, Lê Yên, Hoàng Giác, Dzoãn Mẫn, Đoàn Chuẩn…, mà “đã trở thành não nề và đánh vào não tính“. Phạm Duy nhìn thấy ảnh hưởng và dấu ấn khá rõ ràng của “Chủ nhật buồn” trong “Lời buồn thánh”, một nhạc phẩm tân lãng mạn của Trịnh Công Sơn:
Chiều chủ nhật buồn,
Nằm trong căn gác đìu hiu,
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều,
Trời mưa, trời mưa không dứt,
Ô hay mình vẫn cô liêu…
Hoặc giả, vẫn là Trịnh Công Sơn, trong nỗi buồn của ngày Chủ nhật mùa mưa ở “Tuổi đá buồn”:
Trời còn làm mưa, mưa rơi mênh mang,
Từng ngón tay buồn em mang em mang,
Đi về giáo đường, ngày Chủ nhật buồn…
Gần đây nhất, ở trong nước, nhóm nhạc AC&M - trong album “Những ca khúc bất tử” - cũng đã đem lại một nét mới cho bản tình ca này, và đây có lẽ cùng là lần đầu tiên sau 1975, “Chủ nhật buồn” chính thức xuất hiện ở Việt Nam. Và, kể từ khi mạng Internet toàn cầu được phổ biến, giới trẻ Việt Nam hiện nay cũng đã có dịp biết đến những huyền thoại, những mẩu chuyện - có khi rùng rợn - xung quanh “bài ca chết người” này.
Cho dù không phải tất cả những thông tin vàng thau lẫn lộn ấy trên mạng đều là xác tín, thì một bài ca ở thuở xa xưa, ra đời khi nền Tân nhạc Việt Nam còn chưa chính thức xuất hiện, ngày nay đã đi vào sự hiểu biết của người yêu nhạc Việt Nam một cách rộng rãi, như thế.