Nhịp Cầu Thế Giới Online

http://nhipcauthegioi.hu


GIỌT LỆ TRONG HỒN (14)

(NCTG) Tôi bay bổng vì vui sướng khi đặt lại tờ giấy vào tủ, và tôi đóng, rồi khóa lại cánh cửa tủ. Tôi treo lại bức ảnh về vị trí của nó. Có lẽ tôi vẫn thực hiện được nhiệm vụ này chăng?

Tôi để ý đến tiếng sỏi kêu ngoài đường và tôi thấy một chiếc xe Jeef quân sự phóng như bay về phía tòa đại sứ. Sửng sốt, tôi tắt đèn pin và nhào ra phía cửa sổ. Sao người ta biết nhanh thế?

Khi đó tôi chợt nhận ra. Dù tôi có thoát khỏi "con mắt" của máy ca-mê-ra, nhưng thân hình "bất tỉnh" của người lính gác chắc chắn đã bị để ý đến.

Chiếc xe Jeef phanh kít lại, hai người nhảy khỏi xe. Tôi nghe tiếng cánh cửa tòa nhà sịch mở, phải hành động thôi. Tôi phải thoát ra ngoài.

Tôi nhìn nhanh những cánh cửa sổ. Chúng đều bị đóng, chỉ có thể phá cùng bộ khung gỗ của chúng. Không còn đường ra nào khác, ngoại trừ hành lang mà tôi đã đột nhập vào.

Những bước chân đã dậm thình thịch ngoài hành lang và một thoáng sau, cánh cửa bật mở. Tôi ngồi sụp xuống, chờ đợi. Trong phòng tối tăm, người ta chưa thể nhìn thấy tôi. Tôi siết chặt khẩu súng lục, sẵn sàng nhả đạn.

Đột ngột điện sáng bừng. Tôi lập tức nhả đạn và bắn trúng hai lính gác ngoài cửa. Họ quẳng vũ khí và nằm vật ra sàn nhà, người bị phủ đầy những vết sơn đỏ. Tôi bật dậy, vùng ra ngoài, trong khi chạy tôi nhồi thêm băng đạn mới vào khẩu súng.

Tôi nhớ trong căn tiền sảnh có một con mắt điện tử, tôi tránh tầm hoạt động của nó nhưng bận tâm đến điều này là thừa. Chắc chắn hai người lính gác đã báo động cho mọi người trong nhà, vì tôi nghe thấy những bước chân ở tầng trên và những tiếng thét ngoài sân. Tôi lao ra ngoài cửa chính và chạy như bay trên sân thượng về phía thảm cỏ. Chắc hẳn cửa chính bây giờ cũng được canh phòng, như vậy tôi chỉ có thể chạy thoát theo con đường tôi đã chui vào: vượt tường. Nhưng vừa được mấy bước, tôi đã thấy một nhóm tuần tra gồm ba người quay vòng ở góc sân. Đám lính tuần nằm sấp xuống và chuẩn bị nhả đạn từ những khẩu súng tự động. Tôi nhảy ra sau một chiếc cột to và dày, những viên đạn bọc sơn lập tức bắn chi chít lên nền đá. Một tay cầm khẩu AK-47 và bắn một tràng vào người họ, tay kia tôi vẫn lăm lăm khẩu súng lục. Sau đó tôi chạy ào qua sân thượng và nổ súng liên hồi. Tôi nghe thấy một tiếng thét ngỡ ngàng và đau đớn. Chắc hẳn một người trong số họ đã trúng đạn của tôi. Ở rìa sân thượng, tôi nhào qua lan can và lao vút đi trên mặt cỏ. Hai lính gác ôm súng máy rượt nhanh theo tôi, những viên đạn cắm xuống mặt đất ngay bên hông tôi. Tôi quay lại và vừa chạy, tôi vừa nhả những viên đạn cuối cùng trong khẩu AK-47. Không trúng đích, nhưng họ phải nằm rạp xuống để tránh đạn và như thế, tôi có thêm thời gian. Tôi đã chạy đến bên bức tường đổ bóng xuống bãi cỏ và hy vọng cái bóng của nó sẽ khiến tôi ẩn náu được. Rồi tôi dừng lại và nạp thêm đạn vào khẩu AK-47. Lấy cuộn dây ra, tôi quẳng qua tường và kéo, nó mắc lại. Tôi choàng khẩu AK-47 và ba-lô lên vai. Đúng lúc ấy, bên tai tôi vang lên một tiếng động khiến tôi lạnh toát người: đó là một chuỗi những tiếng sủa của lũ chó săn đang giận dữ đên cùng cực!

Họ đã đuổi gần kịp tôi, ngày càng gần!

Tôi hoảng hốt trèo lên bức tường. Nỗi sợ hãi khiến tay tôi như không còn sức lực, chân tôi trượt lên nền đá. Một tiếng kêu chứng tỏ họ đã thấy tôi. Lũ chó ngày càng tiến đến gần tôi. Tôi tuyệt vọng bám vào bờ tường và ngã vật xuống nền đất ở phía bên kia. Chỉ một thoáng sau đó, lũ chó đã gào rú ở đúng chỗ mà trước đó một tẹo, tôi còn ở đấy!

Tôi phải nghỉ một thoáng trước khi chạy tiếp về phía rừng thông. Tay phải tôi lăm lăm khẩu súng lục, chờ đọi xem khi nào xuất hiện lính canh. Chỉ còn cách góc phía Đông Nam độ mươi thước, tôi chạm trán một nhóm lính đi tuần. Miêng thét vang, tôi bắn liền 7-8 chuỗi và vẫn tiếp tục, không giảm tốc lực. Họ tìm cách bắn lại tôi, nhưng tôi nổ súng liên hồi cho đến khi hết đạn, và cuối cùng cả ba người lính gác đều phải nằm lăn dưới đất, người đầy vết sơn.

- Giỏi lắm! - tôi nghe tiếng khen khi chạy ngang qua họ.

Nhào vào rừng, tôi dùng tay còn lại lấy đèn pin và bật một chút. Tôi cảm thấy như tim sắp vỡ tung và tôi biết phải nghỉ, nhưng trước hết tôi muốn phải rời xa tòa đại sứ. Thực ra tôi không muốn dùng đèn, nhưng không làm sao khác được. Bằng không, chỉ trong nháy mắt, chắc chắn tôi sẽ đâm đầu vào một cây nào đó.

Tôi dừng lại sau khi chạy được chừng trăm mét. Dựa lưng vào một gốc cây, tôi tắt đèn pin. Trong đời chưa bao giờ tôi nghẹt thở đến thế, tim tôi như bật ra khỏi lồng ngực. Mê mẩn, tôi nạp lại đạn vào súng lục, đầu thì nghĩ đến chuyện không biết bao giờ mới chạy tiếp được đây.

Nhưng tôi không có thời gian để trầm tưởng. Từ xa xa, lại vọng lên tiếng chó sủa và tôi cho rằng họ lại dùng chó để săn tôi.

Tôi nhỏm dậy và chạy tiếp. Lũ chó được bịt mõm dẫn đi và như thế, chúng không thể chạy nhanh hơn người dẫn chúng. Tôi loạng choạng trong rùng cây, lại phải bật đèn pin. Cũng phải mất vài phút nữa lũ chó mới đánh hơi thấy tôi và nếu khéo, tôi vẫn có thể thoát chúng.

Chạy được chừng một trăm mét, tôi tới một con suối nhỏ, lòng suối chỉ rộng vài bước chân. Tôi nhảy xuống suối và đi ngược chiều nước chảy. Chân tôi như đóng băng dưới dòng nước lạnh như kem! Đi như thế vài trăm bước, rồi tôi vọt sang bờ bên kia và lao tiếp đi trong rừng. Lúc ấy, tôi tìm một cây để có thể trèo lên được, và may thay, rừng thông có khá nhiều cây như thế.

Năm phút sau, tôi đã chễm chệ trên đỉnh một cây thông đỏ khổng lồ. Tôi nghe tiếng chó sủa từ xa, và thấy cả ánh đèn pin, nhưng cho dù những kẻ rượt theo tôi có thấy dấu vết tôi đi nữa thì dấu này đã mất ở bên suối. Tôi chờ để lấy lại sức, và rồi họ cũng quay trở lại tòa nhà, chấm dứt cuộc truy đuổi.

Thở dài nhẹ nhõm, tôi đầm đìa nước mắt. Tôi hoàn toàn kiệt sức cả về tinh thần lẫn thể xác. Nhìn đồng hồ, tôi thấy đã 2 giờ 20. Vỏn vẹn trong 4 tiếng, tôi còn phải đi một quãng đường rất xa! Tụt xuống đất, tôi móc la bàn và đèn pin. Đã đến lúc phải tiếp tục hành trình.

Chân nọ nối tiếp chân kia như một cái máy, mồ hôi tôi ròng ròng nhưng tôi run cầm cập trong đêm lạnh. Đầu tôi như trống rỗng, tôi cũng không còn cảm thấy phải rảo bước nữa, chả còn gì quan trọng. Tôi cứ đi, cứ đi và ttự nhủ trong lòng: sẽ có lúc về đến trại.

Năm giờ sáng, tôi về đến con đường mòn ở núi Kesong. Chân tôi, nhất là đầu gối và gót, đau điếng và giật giật, tôi bắt đầu lên cơn sốt. Tôi lê bước tiếp xuống núi, rốt cục cũng về đến sân trại. Đến lúc ấy, tôi đã òa lên khóc nức nở và không còn nguyện vọng nào khác, ngoài việc chui vào giường và ngủ liền hai, ba ngày. Tôi mở cửa nhà và khập khiễng bước vào.

Ri Hong và My Ong chờ tôi trong nhà, họ ngủ gà ngủ gật trên ghế đi-văng. Tất nhiên khi tôi vừa vào, họ đã tỉnh ngay vào nhìn tôi chờ đợi.

Một ngày sau, khi phân tích các báo cáo, người ta đã chấm tôi 98 điểm và đây là một trong những kết quả xuất sắc nhất kể từ khi trại được mở. Tôi không được điểm tối đa chỉ vì tôi đã "hạ sát' quá nhiều lính gác, và nói chung tôi làm mọi thứ quá ầm ĩ.

Tuy nhiên, khi bước vào nhà, tôi chỉ còn sức nhắc lại như máy những câu nói mà trước đó mấy giờ, tôi đã ghi lòng tạc dạ: "Okhva, cô đã đi được một nửa trên con đường đến đích! Buổi sáng, khi gặp lại sĩ quan huấn luyện Ri Hong, hãy nhắc lại điều này, càng chính xác càng tốt. Chúc cô may mắn."

Trước khi ngã sóng xoài bất tỉnh trên mặt đất, tôi còn kịp nhìn thấy Ri Hong mỉm cười.

Tác giả bài viết: Trần Lê chuyển ngữ - Còn tiếp