GHI CHÉP MỘT CHUYẾN ĐI
- Thứ hai - 08/02/2010 20:22
- In ra
- Đóng cửa sổ này
Tác giả và nhà thơ Vũ Quần Phương trong chuyến đi
Hơn một trăm đại biểu nước ngoài từ 32 quốc gia đã tham dự Hội nghị, trong số đó, có 17 đại biểu Mỹ, 5 đại biểu Trung Quốc, 5 đại biểu Đức, 3 đại biểu Argentina, 5 đại biểu Cuba, 7 đại biểu Ấn Độ, 5 đại biểu Nga cùng các đại biểu Pháp, Thụy Điển, Mông Cổ, Campuchia, Lào, Romania, Philippines, Indonesia.
Về phía Việt Nam, có gần 200 hội viên Hội Nhà văn cùng hàng trăm tình nguyện viên (giảng viên, sinh viên Đại học Ngoại ngữ) giúp đỡ và đưa đón khách. Nhà văn có tuổi nhất tham gia Hội nghị là nhà thơ Nguyễn Viết Lãnh (92 tuổi) cùng phu nhân 75 tuổi, còn nhà văn Achentina Carlot (84 tuổi) vẫn đầy sinh khí trong bản tham luận của mình.
Sau phần hội thảo ở Hà Nội, các đại biểu tham dự còn được bố trí hai ngày thưởng ngoạn tại Hạ Long, Yên Tử, phủ Thành Chương và tham gia Đêm thơ Quốc tế tại Tuần Châu. Những hoạt động này ấn tượng đến mức, theo lời kể một đại biểu Việt Nam, một nhà văn Ấn Độ vốn ít lời cũng phải thốt lên “chẳng khác gì cổ tích”.
Được vinh dự tham gia hội nghị và chuyến đi sau đó cùng các đại biểu Việt Nam và quốc tế, tôi đã có nhiều kỷ niệm khó quên mà những dòng ghi chép sau đây không thể nào chứa chở hết...
*
Buổi sáng, gió mùa Đông Bắc đến đột ngột, trời se lạnh, những hạt mưa rất nhỏ cứ rơi nhè nhẹ.
Tôi đưa mắt chào những dãy đảo xa mờ, sóng vẫn vỗ đều lên bờ cát trắng, nơi đó không xa là những hàng dừa xanh thẳng tắp, những vườn hoa đang nở trái mùa khoe sắc dưới mưa Đông. Đoàn xe chúng tôi chuyển bánh từ nơi đó. Trong lòng chắc ai cũng thầm chào Hạ Long trong nhớ thương và hẹn ngày gặp lại.
Trên xe buýt số 5, ngồi cạnh tôi là chị Hilary Watts, một nhà thơ trẻ sống ở thành phố Boston (Đông Bắc nước Mỹ). Chị có một tình yêu đặc biệt với Việt Nam: chưa đầy 6 tháng đã hai lần đến Việt Nam, đã tham gia chuyến xe đạp từ Bắc vào Nam hơn 2 ngàn cây số để quyên tiền giúp đỡ trẻ Việt Nam bị bệnh bẩm sinh. Tôi cũng kể cho Hilary nghe những kỷ niệm 16 năm trước, hồi đó tôi sống và làm việc ở thành phố Philadelphia (Mỹ) - thành phố quê hương chị tôi cũng đã từng qua.
Dọc đường đi, tôi chỉ cho Hilary những ngôi làng, nhưng bây giờ đâu còn nhà vườn như xưa, thay vào đó là nhà hộp, nhà ống... Hilary hỏi tôi: “Không biết kiến trúc sư hay kỹ sư xây dựng nào đầu tiên đã nghĩ ra kiểu nhà như thế?”. Câu hỏi thật khó đối với tôi, khiến tôi buồn cho những người có trách nhiệm quy hoạch và kiến trúc tại Việt Nam.
Thỉnh thoảng, chúng tôi lại thấy những lô đất rộng đã khoanh vùng có biển đề khu công nghiệp, nhưng đất lại để không. Đặc biệt, vùng đất mỏ Quảng Ninh trồng rất nhiều cây để làm giấy. Tôi không biết tên là gì, thấy cũng giống như cây khuynh diệp, nhưng lá cả hai mặt đều màu xanh.
Khoảng 1 giờ sau, chúng tôi đến Yên Tử. Trời không mưa, những đám mây bay là đà sát đất. Vừa bước xuống xe, đã thấy các cô tiếp viên xinh đẹp, lịch sự đón chúng tôi, phát cho mỗi người một áo ni-lông có mũ che. Dù mặc áo đội mũ, nhưng mây vẫn làm chúng tôi ướt. Mùa này Yên Tử vắng du khách, hình như hôm nay chỉ đón tiếp đoàn chúng tôi.
Hành trình thăm viếng Yên Tử bắt đầu từ suối Giải Oan với cây cầu xanh nối hai bờ suối. Cầu dài chừng 10 mét, kiến trúc đơn giản nhưng toát lên vẻ đẹp cổ kính, vững chãi. Đoàn chèo Quảng Ninh đã chờ sẵn từ bao giờ với trang phục rất đẹp, sặc sỡ đặc trưng cho đoàn chèo của đồng bằng Bắc Bộ. Tôi nghe hát rất hay nhưng chẳng hiểu gì cả, quay sang hỏi nhà thơ Vũ Quần Phương:
- Họ đang diễn vở gì thế anh?
- Tớ cũng chả hiểu gì cả - anh Phương đáp.
Ngay bên cạnh, nhà thơ Phạm Quốc Ca (Đại học Đà Lạt) giải thích cho chúng tôi về tích của vở chèo. Tục truyền ngày xưa vua Trần Nhân Tông nhường ngôi vua cho con là Trần Anh Tông rồi tìm đến cõi Yên Tử để tu hành. Vua Trần Nhân Tông có ba trăm cung tần mỹ nữ - họ khuyên ông trở về cung gấm nhưng không được nên đã lao mình xuống suối tự vẫn. Thương cảm họ, vua Trần Nhân Tông lập một ngôi chùa siêu độ để giải oan, từ đó con suối mang tên Giải Oan.
Nhưng không phải tất cả cung tần mỹ nữ đều đã lao mình xuống suối tự vẫn. Số còn lại lấy những người nông dân bản địa, nên con trai con gái Yên Tử ngày nay rất xinh đẹp, tuấn tú.
Nghe kể xong, tôi cũng hơi ngờ ngợ, mới hỏi Vân Anh (Hội Nhà văn Việt Nam):
- Suối rất nhỏ, chỗ sâu nhất chỉ đến đầu gối, nước trong veo, chảy êm đềm như thế này thì làm sao cách đây hơn 700 năm các cung tần mỹ nữ nhảy xuống đó tự vẫn được?
Vân Anh cho biết:
- Ngày xưa nơi này hoang vu lắm, rừng rậm, suối sâu. Anh thấy dưới suối có rất nhiều đá to tròn, lại phẳng lỳ... chúng tỏ ngày xưa nước suối chảy rất xiết.
Rồi Vân Anh xuống suối. Tôi thấy lạ, trời thì lạnh, người thì ướt mà Vân Anh lại rửa chân, tay, mặt. Thấy tôi ngạc nhiên, anh Vũ Quần Phương bảo:
- Ai đến đây cũng thích xuống suối để rửa mặt, tay chân, có người còn lấy nước uống để cầu may, xả xui, giải oan... cho lòng thanh thản.
Rửa chân xong Vân Anh cứ đứng chơi vơi trên đá để lau chân, đi giày. Tôi thấy không ổn liền chạy xuống giúp Vân Anh. Một tay nắm tay tôi, tay kia Vân Anh lau khô chân - khoảnh khắc đó trên cầu đèn máy ảnh cứ nháy lia lịa.
Cùng Vân Anh (Hội Nhà văn Việt Nam)
Sau đó chúng tôi vào sân chùa, có rất nhiều hoa, những cánh hoa ướt sẫm. Riêng hoa loa kèm màu hoàng yến chen lẫn với màu trắng nên vẫn cứ hiên ngang trước gió lạnh và mưa trời. Xung quanh chùa có 6 ngọn tháp, lớn nhất là tháp mộ vua Trần Nhân Tông, hai bên là tháp mộ sư Pháp Loa và sư Huyền Quang.
Rồi chúng tôi đi vào một ngôi nhà to, cao và được mấy người hướng dẫn vào cabin của cáp treo. Ngồi trong cabin nhìn xuống là những cánh rừng nguyên sinh rậm rạp xanh rì lẫn trong mây trắng. Thấy nhiều nhất vẫn là những cây tùng cây bách có mấy trăm năm tuổi, tiếp đến là những rặng trúc xanh, trúc vàng...
Hết cáp treo, chúng tôi còn phải leo rất nhiều bậc thang mới đến chùa Vân Tiên lẩn khuất trong mây bên triền núi ở độ cao 700 mét. Tôi chợt nhớ lại câu thơ của anh Vũ Quần Phương và đọc:
“Tưởng bắt gặp những tầng mây nguyên thủy
hàng vạn năm vẫn ngơ ngẩn giữa không trung”.
Anh Phương bảo tôi:
- Ôi, cậu còn nhớ câu thơ mình viết vào năm 1964 cơ à, hồi ấy mình là sinh viên năm cuối Đại học Y khoa Hà Nội đi thực tế ở dãy Trường Sơn miền Tây Quảng Bình. Quả thật, mấy hôm nay mình rất mến cậu, vừa là đồng nghiệp của mình, cậu lại biết viết văn và chữa bệnh. Còn mình 45 năm qua chỉ làm thơ và viết văn thôi. Tháng 3 tới có hội nghị cho những người viết tuyên truyền y tế do Bộ Y tế tổ chức, tớ sẽ bảo Ban tổ chức mời cậu nhé.
Tôi đáp:
- Anh Phương ơi, tha cho em! Một năm làm việc, tiết kiệm được ít tiền, về lần này là sạch bách. Quê em nghèo lắm, về quê bà con bạn bè ai cũng phải có chút quà cho vui.
Anh cười ồ lên:
- Thôi, tùy cậu.
Hôm nay trời lạnh, lại mây nhiều nên chúng tôi không đi tiếp được. Mấy nhà văn Mỹ, Nga, Argentina, Trung Quốc, Thụy Điển, Romania... còn cố leo bộ lên đỉnh núi cao hơn.
Xuống hết cáp treo, có hai chùa lớn hai bên. Cũng đã đến giờ ăn trưa. Tôi chưa ăn chay bao giờ nên cũng tò mò xem thức ăn chay thế nào và đi vào chùa bên phải (chùa bên trái là ăn mặn). Nhóm chúng tôi gần 20 người nên kéo 2 bàn xích lại gần nhau. Anh Hữu Thỉnh (Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam) ngồi đối diện với ông Tổng Giám đốc Du lịch Yên Tử để bàn việc ai viết lời bình cho bộ phim về Yên Tử. Cuối cùng, anh Nguyễn Trọng Tạo nhận lời.
Lần đầu tiên, tôi thấy ăn chay cũng ngon chẳng kém gì ăn mặn, cũng có canh, có cá rán, thịt rán... nhưng chỉ làm bằng bột và đậu. Tôi thích nhất vẫn là món canh măng. Vừa ăn vừa tán chuyện với GS. Hồ Ngọc Đại, nhà văn Thái Bá Lợi, Vân Anh, Hữu Thỉnh, Vũ Quần Phương, Lê Thị Hiệu (từ Pháp về dự), Nguyễn Trọng Tạo, Bằng Việt... thật vui. Tôi nói đùa: “Em ăn chay nhưng ngủ mặn, chứ không ngủ chay đâu!”, làm mọi người phá lên cười và ai cũng đồng ý như thế.
Ăn cơm trưa xong, tôi bùi ngùi chia tay anh Thái Bá Lợi, anh ở lại Yên Tử 10 ngày để viết bài. Có chai rượu mang từ Hungary về để tặng anh, chưa kịp đưa cho anh ở Hà Nội, đành gửi lại nhờ anh Nguyễn Trọng tạo chuyển cho anh sau.
Xe chưa ra khỏi vùng Yên Tử, đường còn dốc và quanh co, những cánh rừng bạt ngàn xanh ngát còn đang nằm yên dưới ánh nắng vàng yếu ớt của chiều đông... Nhà thơ, họa sĩ Trần Nhương cầm một máy ghi âm từ cuối xe lên đầu xe phỏng vấn mọi người cảm nghĩ về hội nghị, về chuyến đi vừa qua.
Nhà thơ Bằng Việt:
- Các bạn quốc tế đến Việt Nam thế nào thì đi như thế. Điều quan trọng nhất là họ mang theo một hành trang tinh thần rất lớn: hiểu biết về văn hóa Việt, văn học Việt. Tôi cho rằng điều đó chính là thành công của hội nghị.
Lê Thị Hiệu (từ Cộng hòa Pháp):
- Trước khi về bạn bè tôi nói mày không cần về đâu, mày không về thì hội nghị ở Việt Nam bao giờ cũng thành công tốt đẹp (cười). Vui lắm, gặp bao nhiêu bạn bè. Còn thành thông của hội nghị thế nào thì anh cho vài phút suy nghĩ cái đã... (cười).
Nhà thơ, nhà báo Nguyễn Việt Chiến:
- Quá hay, ăn chơi tối ngày hết Hạ Long lại Yên Tử! Chưa bao giờ nhà báo tiếp cận nguồn thông tin đồ sộ. Bản thân tôi đã khai thác được rất nhiều tài liệu từ bạn bè quốc tế.
Dịch giả Đoàn Tử Huyến:
- Hơi bị choáng, tôi sướng, bạn bè sướng, chưa biết dịch thế nào, thuật thế nào, học thế nào. Hy vọng lần sau nên choáng kiểu khác cho phong phú.
Tôi:
- Sung sướng vô cùng, có thể ngôn ngữ bất đồng nhưng chỉ nhìn nhau đã hiểu hết. Tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc được có mặt tại hội nghị lần này. Điều quan trọng nhất vẫn là đội ngũ viết. Không có tác phẩm hay thì người dịch cũng chẳng làm được gì. Một cường quốc bao giờ cũng dễ tìm những con người vĩ đại. Vì vậy, dễ hiểu là chúng ta chưa có một tác phẩm văn học nào được đưa vào học đường của thế giới. Nhưng chúng ta cũng vẫn nên tổ chức những hội nghị như thế này, để thế giới hiểu thêm về văn học Việt Nam.
Inrasara (nhà thơ, dân tộc Chàm):
- Có lúc hơi bị sến, luộm thuộm nhưng tôi gặp nhiều bạn, giới thiệu được nhiều tác phẩm dân tộc thiểu số - trong đó có của Inrasara - với bạn bè quốc tế.
Nhà thơ Vũ Quần Phương:
- Được quá, bây giờ về rồi còn nói gì nữa. Tôi tin lần sau sẽ hay hơn. Bây giờ về tập thể dục cho khỏe để lần sau còn đi dự (cười).
Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo:
- Vui, rất vui! Hội nhập không cần ngôn ngữ. Hy vọng lần sau thì các nhà văn Việt Nam nói được ngoại ngữ và các nhà văn quốc tế nói được tiếng Việt...
Còn Di Li, nhà văn đầy triển vọng chuyên viết đề tài trinh thám và kinh dị, lúc nào cũng có vẻ kiêu kiêu và trong Hội Nhà văn được gọi là “giới chân dài”, thì một mình nằm dài trên bốn ghế ngủ khò khò, Trần Nhương gọi mãi cũng không dậy.
Cùng các đại biểu trong chuyến du ngoạn
Sau pha phỏng vấn là những câu chuyện đàm tiếu mà chủ chòm là nhà văn Trần Cương, khiến mọi người cười đau cả bụng, chảy cả nước mắt, quên cả chặng đường dài 130 cây số. Có lúc cả Trần Cương, Trần Nhương, Đoàn Tử Huyến và Vũ Quần Phương... dành nhau để kể chuyện. Đại loại những chuyện tếu như sau:
1. Hữu Thỉnh vốn là lính xe tăng, sau trận mạc về quê lấy vợ. Lần đầu sang Moscow mấy anh bạn ở Trường Viết văn Gorky muốn tìm giúp Thỉnh một cô sinh viên Nga để làm quen, cô này cao ráo, trắng, đẹp lắm và đương nhiên là còn rất trẻ. Thỉnh rất vui và nhận lời: “Thế à, rất tốt!” Thỉnh lúc nào cũng trả lời nhát gừng, biểu hiện tính cách thật thà, chân thật và lòng tốt bụng.
Một ngày đẹp trời cuối xuân đầu hè của nước Nga, các bạn mời cô bạn sinh viên Nga tới, phòng dọn ngăn nắp, lại có lẵng hoa tươi và rất nhiều bánh trái. Gọi điện bảo Thỉnh đến ngay, Thỉnh trả lời: “Bây giờ à, tớ sang ngay!”.
Một lúc sau, Thỉnh gọi điện nói không thể sang được: “Ông Vũ Tú Nam vừa từ Hà Nội sang, tớ phải đi với ông ấy lên Hội Nhà văn Nga”.
Thế là chuyến gặp không thành, anh em thương Thỉnh, cố tạo cho Thỉnh một buổi vui khác. Vào cuối hè, những trang trại ngoại ô Moscow đang mùa thu hoạch táo, hàng ngàn sinh viên các trường đại học tham gia thu hoạch. Sinh viên nữ thường chỉ mặc quần con và áo ngực nhỏ, vừa hái táo vừa tắm nắng. Thỉnh ngồi trên xe taxi với các bạn, mắt cứ long lanh, lòng sung sướng, hai bàn tay sát chặt với nhau cứ xoay tròn, miệng hét tướng lên: “Úi chà chà, úi chà chà...”. và bảo tài xế vòng đi vòng lại hai lần.
2. Các nhà thơ Nông Quốc Chấn, Chế Lan Viên, Bằng Việt, Nguyễn Trọng Tạo lên công tác ở vùng cao Việt Bắc. Đến huyện ủy một huyện, Tạo giới thiệu Nông Quốc Chấn là thứ trưởng, trưởng đoàn, Chế Lan Viên, Bằng Việt là thành viên của đoàn, còn Tạo tự nhận là người lái xe.
Người dân tộc thật thà, ngay buổi đầu tiên đã phân công Chế Lan Viên đi bưng cơm và rót nước cho Nông Quốc Chấn. Chế Lan Viên ngoan ngoãn làm theo sự phân công của huyện ủy. Thấy vậy, Nông Quốc Chấn trợn tròn mắt (vì Chế Lan Viên là bậc thày của Nông Quốc Chấn): “Sao anh lại đi lấy cơm cho tôi?”.
Chế Lan Viên ngoan ngoãn trả lời: “Huyện ủy phân công tôi làm, tôi nghĩ phần cơm của trưởng đoàn bao giờ cũng ngon hơn và nhiều hơn, thế nào anh cũng chia cho tôi”. Cả hai cùng phá lên cười và ăn cùng nhau vui vẻ.
3.
“Trên dòng Hương Giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo...
... Ngày mai trong giá trắng ngần
Cô thôi kiếp sống đày thân giang hồ”
Theo như người kể, cô gái bán dâm trên dòng sông Hương gặp được Tố Hữu, Tố Hữu giới thiệu cô ta với cán bộ phụ nữ xã. Cán bộ đã cảm hóa và giúp cô thành đảng viên, rồi làm cấp lãnh đạo.
4.
“Chào 61 đỉnh cao muôn trượng
Ta đứng đây mắt nhìn bốn hướng”
Năm 1985, Tố Hữu lên làm Phó Thủ tướng phụ trách về kinh tế. Để chứng tỏ dự đoán của mình là tiên tri, Tố Hữu cố tình lái nền kinh tế Việt Nam đến bờ vực thẳm với chính sách: Giá – Lương - Tiền.
5.
Theo Nguyễn Đình Thi, mỗi người nông dân Việt Nam ai cũng là ông thánh, có vầng hào quang sáng chói nếu biết:
“Rũ bùn, đứng dậy chói lòa!”
Suốt quãng đường 2 tiếng, chúng tôi đã kể và đã được nghe bao nhiêu câu chuyện thú vị mà tôi không thể nhớ hết.
*
Xe chạy, thỉnh thoảng tôi vẫn nhìn thấy những đám ruộng khô cằn trong mùa đông giá rét. Đó đây, thấp thoáng những người nông dân cày ruộng, với những chiếc cày ngàn đời vẫn vậy đi theo con trâu. Đi qua một góc của Sân bay Quốc tế Nội Bài, tôi thấy máy bay cứ lên xuống liên tục, đặc biệt là những chiếc Boeing màu xanh rất to và mới của Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam.
Xe chạy tiếp về phía Tây qua những dãy đồi đất đỏ được phủ kín màu xanh của rừng. Anh Trần Cương chỉ cho tôi thấy dấu vết những địa điểm giấu máy bay Mic của ta trong những năm tháng chiến tranh.
Phủ Thành Chương nằm trên đồi cao nhìn xuống mặt hồ rất đẹp và rộng. Ra đón đoàn chúng tôi là một phụ nữ đã đứng tuổi, rất đẹp (anh Trần Cương thì thầm với tôi đó là vợ thứ hai của họa sĩ Thành Chương), chị tươi cười vui vẻ mời cả đoàn uống nước vối, ăn kẹo lạc có vừng. Lúc này tôi mới được biết phủ Thành Chương được đặt theo tên một họa sĩ, anh mua khu đất này và tạo ra một làng cổ Việt Nam.
Chúng tôi len lỏi lên các khu nhà, nhà trệt có, nhà sàn có, gồng gánh thúng mủng, cối xay lúa, giã lúa, nơm bắt cá... đủ cả. Nhưng tôi vẫn thấy... làm sao ấy, nhà sàn của dân tộc vùng cao, bậc thang lên không phải bằng gỗ mà bằng bê tông xi măng cốt sắt. Nhà tắm thì hiện đại hơn cả nhà tắm của gia đình tôi ở Budapest, lại có cả bếp ga nữa.
Tôi nói với anh Vũ Quần Phương và anh Nguyễn Tiến Lộc (từ Canada): “Nhà tắm này là của công chúa Mỵ Châu đấy, còn bếp ga kia chắc của vua Hùng thứ 18”, làm mọi người cười ồ cả lên. Đúng là thập cẩm, hay Nam Bộ gọi là lẩu. Tôi cũng góp ý với chủ nhân rằng, anh xây khu này nên có các nhà sử học, dân tộc học... làm tham mưu.
Ra khỏi phủ Thành Chương, mặt trời đã gác bên kia dãy Tam Đảo, màu đỏ nhạt của Trời in bóng xuống mặt hồ. Đang mơ màng với vẻ đẹp thiên nhiên thì điện thoại tôi báo có tin nhắn tới. Mở ra xem, hóa ra một số máy lạ với nội dung sau đây: “Tôi là chồng chính thức của Vân Anh, làm việc ở Hội Nhà văn Việt Nam. Tôi thấy anh và Vân Anh hơi quá quý mến nhau đấy. Nhưng anh hãy gói trọn vào kỷ niệm của một chuyến đi. Đừng mang nó đi xa hơn nữa!”.
Và kèm theo là bức ảnh tôi và Vân Anh đang ở bên suối Giải Oan. Sau này, tôi mới biết bức ảnh này cũng được gửi cho anh Hữu Thỉnh và anh Nguyễn Trí Huân, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam.
Bữa chiêu đãi buổi tối của Hội Nhà văn Việt Nam đang đợi chúng tôi ở khách sạn Tây Hồ. Anh Hữu Thỉnh đã nói: đêm nay thức ăn sẽ không bao giờ hết và rượu không bao giờ cạn!
Ngày mai chúng tôi phải chia tay nhau rồi, mỗi người về một ngả. Chưa đến giờ phút đó nhưng lòng tôi bùi ngùi thương nhớ và man mác buồn. Không biết bao giờ mới có cuộc hàn huyên rất vui, rất quý và bổ ích như thế này...